Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 36, Chúa Nhật 11.03.2007


MỤC LỤC 

Sứ Ðiệp Của Công Ðồng Vatican2 Nhân Dịp Bế Mạc (8-12-1965) 

LINH MỤC VÀ GIA ĐÌNH GIÁO XỨ                                                                               GSVN

ÐỒNG HÌNH HAY BIẾN HÌNH                                                                 Lm. Đỗ Vân Lực, op.

ĐẶC SỦNG CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP                                                           Trần Hữu Hạnh, fsf

Đồng Hành Với Chúa - RỬA CHÂN                                                    Hương vĩnh chuyển ngữ

TỪ ÐỈNH NON CAO                                                                                                Vân Thanh

NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ VIỆC THƯỞNG PHẠT (bài 3)              Lm. Lê Văn Quảng

CÓ NÊN DẠY GIÁO LÝ HAY CỬ HÀNH THÁNH LỄ...                 GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi

GIAI ĐOẠN HẬU CHỦNG VIỆN                                      Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

“NƠI AN NGHỈ MỘT NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI”                      Thuận Châu Phan Văn Khải

An Toàn Sử Dụng Dược Phẩm                                                               Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức


Sứ Ðiệp Của Công Ðồng Vatican2 Nhân Dịp Bế Mạc (8-12-1965)

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


Ð.G.H. Phaolô VI tuyên đọc

Nhập Ðề

8. Chư huynh đáng kính,

Giờ lên đường, giờ giải tán đã điểm. Lát nữa, Chư huynh sẽ từ giã nghị hội Công Ðồng để trở về gặp gỡ nhân loại, mang về cho nhân loại tin vui của Phúc Âm Ðức Kitô và của việc canh tân Giáo Hội mà chúng ta đã làm từ bốn năm nay.

Ðây là giờ phúc độc nhất, giờ phút đầy ý nghĩa và phong phú vô cùng! Trong cuộc đại hội hoàn cầu, ở một thời gian và một địa điểm đặc biệt này, chúng ta thấy qui tụ lại tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ vì ở đây tụ họp lại toàn thể Giáo Hội Ðức Kitô, với truyền thống lịch sử của mình với các Công Ðồng, các Tiến Sĩ, và các Thánh của mình. Hiện tại: vì chúng ta đang từ giã nhau để đi về gặp gỡ thế giới ngày nay, một thế giới với các khốn cùng, đau thương và tội lỗi của nó nhưng cũng có giá trị và nhân đức của mình. Sau cùng, tương lai: với tiếng gọi khẩn cấp của các dân tộc đang mong mỏi công bình, với ý chí muốn xây dựng hòa bình và với khát vọng ý thức hay vô ý thức về một đời sống cao đẹp hơn, đời sống mà chính Giáo Hội Chúa Kitô hiện có thể và đang muốn mang lại cho họ.

9. Chúng tôi thấy như từ khắp nơi trên thế giới đang vọng về tiếng xôn xao tuy mơ hồ nhưng lớn lao của tất cả những người hướng nhìn về Công Ðồng và lo lắng hỏi chúng ta: các ngài lại không nói lời nào với chúng tôi sao...? Vâng chúng tôi đây là những nhà cầm quyền, những nhà trí thức, những người lao động, những nhà nghệ sĩ...? Chúng tôi, những phụ nữ, những thanh niên, những người đau ốm và nghèo khổ, các ngài không có lời nào cho chúng tôi sao?

Những tiếng gọi thiết tha ấy phải được đáp lại. Chính vì tất cả mọi tầng lớp nhân loại mà Công Ðồng làm việc từ bốn năm nay; chính vì muốn dành cho họ nên "Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay" đã được soạn thảo và hôm qua chúng tôi đã ban hành giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của Chư Huynh.

10. Từ cuộc suy niệm lâu dài của chúng ta về Chúa Kitô và về Giáo Hội Người, giờ đây phải thốt lên tiếng nói đầu tiên, loan báo nền hòa bình và sự cứu độ cho bao đám đông đang mong đợi. Trước khi từ biệt, Công Ðồng muốn hoàn thành chức vụ tiên tri này. Công Ðồng muốn diễn tả "Tin Mừng" mà Công Ðồng mang đến cho toàn thế giới bằng những sứ điệp vắn và trong một ngôn ngữ mọi người có thể hiểu dễ dàng. Tin mừng này sẽ được một vài Vị trong những phát ngôn viên có thẩm quyền của Công Ðồng nhân danh Chư Huynh nói chuyện với toàn thể nhân loại.

 

Hồng Y A. Liénart tuyên đọc:

Gửi Các Nhà Cầm Quyền

11. Trong giờ phút long trọng này, chúng tôi, những Nghị Phụ trong Công Ðồng thứ 21 của Giáo Hội Công Giáo sắp sửa từ giã nhau sau bốn năm cầu nguyện và làm việc, ý thức trọn vẹn về sứ mạng của mình đối với nhân loại, chúng tôi trân trọng và tín cẩn ngỏ lời với những vị hiện đang cầm trong tay vận mệnh của mọi người trên địa cầu, cùng hết mọi người đang cầm quyền bính trên trần gian.

Chúng tôi lớn tiếng tuyên bố: chúng tôi kính trọng quyền hành và chủ quyền của quí vị, chúng tôi tôn trọng chức vụ của quý vị. Chúng tôi nhìn nhận những pháp luật chính đáng của quí vị, chúng tôi quí chuộng người làm ra cũng như người áp dụng những luật ấy. Nhưng chúng tôi có một lời chí thánh để nói với quí vị, đó là: chỉ một mình Thiên Chúa là cao cả. Chỉ một mình Thiên Chúa là nguyên thủy và là cứu cánh. Chỉ một mình Thiên Chúa là nguồn gốc của quyền bính và là nền tảng các luật lệ của quí vị.

12. Chính quí vị có nhiệm vụ phải cổ võ cho nền trật tự và hòa bình giữa mọi người trên trái đất. Nhưng xin đừng quên: Thiên Chúa chân thực và hằng sống là Cha mọi người. Và chính Chúa Kitô, người Con vĩnh cửu của Thiên Chúa đã đến nói cho chúng ta biết điều ấy và dạy cho chúng ta biết tất cả đều là anh em với nhau. Chính Người là thợ cao cả của trật tự và hòa bình thế giới vì chính Người hướng dẫn lịch sử nhân loại và chỉ một mình Người mới có thể khiến các tâm hồn từ khước những dục vọng xấu xa, mầm mống phát sinh ra chiến tranh và đau khổ. Chính Người là Ðấng chúc lành cho cơm bánh của nhân loại, thánh hóa việc làm và những vất vả của nhân loại, mang lại cho nhân loại những niềm vui mà quí vị không thể mang lại cũng như làm cho họ vũng mạnh lại trong những đau thương mà quí vị không thể an ủi được.

13. Trong xã hội thế trần và hữu hạn của quí vị, Chúa Kitô xây dựng cách nhiệm mầu xã hội tinh thần và vĩnh cửu của Người tức là Giáo Hội của Người, vậy Giáo Hội mong muốn gì ở quí vị, sau hai ngàn năm biến chuyển thăng trầm về mọi phương diện trong mối bang giao với quí vị, những người nắm quyền lực trần gian? Ngày nay Giáo Hội cầu mong gì ở quí vị? Giáo Hội đã nói nguyện vọng ấy cho quí vị trong một bản văn quan trọng của Công Ðồng: Giáo Hội chỉ yêu cầu quí vị để tự do: tự do tin và rao giảng niềm tin của mình, tự do yêu mến Thiên Chúa và phụng sự Ngài, tự do sống và mang đến cho mọi người sứ điệp về sự sống. Xin đừng kiêng sợ Giáo Hội: Giáo Hội theo gương chủ mình nên hoạt động mầu nhiệm của Giáo Hội không dẫm chân lên những đặc quyền của quí vị nhưng để cứu nhân loại khỏi sự tàn tạ oan nghiệt, biến đổi nó, đổ đầy niềm hy vọng, chân lý và vẻ đẹp.

Xin hãy để Chúa Kitô thi hành công việc tinh luyện xã hội này! Xin đừng đóng đinh Người lại một lần nữa: việc đó là phạm thánh vì Người là Con Thiên Chúa; đó cũng là tự sát vì Ngài là Con Người. Xin để yên chúng tôi, những thừa tác viên khiêm tốn của Người, đừng cản trở chúng tôi trong việc gieo rắc khắp nơi "tin mừng" của Phúc Âm hòa bình, tin mừng đã được chúng tôi nghiền ngẫm trong suốt thời kỳ Công Ðồng. Dân chúng của quí vị sẽ là những người đầu tiên được hưởng ơn ích tin mừng hòa bình này vì Giáo Hội nhằm đào tạo cho quí vị những người công dân liêm chính biết yêu chuộng hòa bình và tiến bộ.

Trong ngày long trọng bế mạc các phiên hội của Công Ðồng Chung lần thứ 21 này, Giáo Hội, qua tiếng nói của chúng tôi, xin gửi tới quí vị tình thân hữu, ý chí phục vụ và những năng lực tinh thần cũng như đạo đức của mình. Giáo Hội xin gửi đến tất cả quí vị sứ điệp cứu độ và chúc lành. Xin hãy tiếp nhận sứ điệp ấy trong cùng một tinh thần như đã được gửi đi, nghĩa là với một tấm lòng hoan hỉ, chân thành và xin quí vị cũng chuyển tới tất cả dân chúng của quí vị.

 

Hồng Y P. Léger tuyên đọc:

Gửi Giới Trí Thức

14. Công Ðồng đặc biệt gửi lời chào kính tới những người kiếm tìm chân lý, những nhà tư tưởng và khoa học, những nhà thám hiểm vũ trụ, lịch sử và con người. Xin chào thăm tất cả quí vị, những người lữ hành đang tiến về ánh sáng, cả những người đã đứng lại dọc đường vì mệt mỏi hoặc thất vọng vì tìm không thấy.

Tại sao chúng tôi lại chào kính đặc biệt quí vị? Bởi vì tất cả chúng tôi đây, những giám mục, Nghị Phụ Công Ðồng, chúng tôi cũng đang ngóng tìm chân lý. Nỗ lực của chúng tôi trong bốn năm qua là gì, nếu không phải là một cuộc tìm kiếm chú ý hơn và đào sâu sứ điệp chân lý đã được giao phó cho Giáo Hội, một nỗ lực lắng nghe thuần thục và chăm chú hơn trước tiếng nói của Thần Chân Lý?

Vì thế chúng tôi không thể không gặp gỡ quí vị. Con đường quí vị cũng là con đường của chúng tôi. Ðường lối quí vị cũng không bao giờ xa lạ với những đường lối chúng tôi. Chúng tôi là những người bạn đồng hành cùng được kêu gọi để tìm kiếm như quí vị, cùng chia sẻ mệt nhọc với quí vị, cùng chung tiếng thán phục những thành quả của quí vị, và nếu cần, có thể khích lệ khi quí vị nản chí và thất bại.

15. Vì thế chúng tôi có một sứ điệp gửi tới quí vị. Sứ điệp ấy như sau: xin hãy tiếp tục tìm kiếm và đừng bao giờ nản chí, thất vọng vì không tìm được chân lý! Xin hãy nhớ tới lời người bạn thân thiết của quí vị là Thánh Augustinô: "Hãy tìm kiếm với ước muốn gặp thấy, và gặp thấy với ước muốn kiếm thêm mãi"! hạnh phúc cho những ai đã gặp thấy chân lý nhưng vẫn còn kiếm tìm thêm mãi để đổi mới, để đào sâu chân lý và mang chân lý tới cho người khác. Hạnh phúc cho những ai dù chưa gặp gỡ chân lý, nhưng vẫn thành tâm tiến tới chân lý: mong họ tìm ánh sáng ngày mai nhờ ánh sáng hôm nay, cho đến lúc chan hòa ánh sáng.

Xin cũng đừng quên: suy nghĩ là một việc cao cả, nhưng trước hết là một nhiệm vụ. Bất hạnh thay cho những người cố tình nhắm mắt trước ánh sáng! Suy nghĩ còn là một trách nhiệm: bất hạnh thay cho những người làm tinh thần mờ tối bằng trăm ngàn thủ đoạn khiến họ chán nản, kiêu căng, lầm lẫn và sai lệch! Nguyên tắc căn bản của những nhà khoa học là gì nếu không phải là: cố gắng suy nghĩ đúng?

16. Ðể giúp suy nghĩ đúng, chúng tôi đến cống hiến quí vị ánh sáng của cây đèn mầu nhiệm là đức tin, không phải để làm quẩn chân hay làm chói mắt quí vị. Ðấng trao gởi ánh sáng đức tin cho chúng tôi là vị tôn sư của tư tưởng và chúng tôi là những đệ tử khiêm tốn của Người, chỉ một mình Người đã nói và có quyền nói: "Ta là ánh sáng thế gian. Ta là đường, là sự thật và là sự sống".

Lời nói trên đây có liên hệ đến quí vị. Nhờ ơn Thiên Chúa, cái khả năng hòa đồng sâu xa giữa khoa học chân chính và đức tin chân chính có lẽ không bao giờ lại hiện rõ hơn ngày hôm nay vì cả hai điều phục vụ cho chân lý duy nhất. Xin đừng ngăn cản cuộc gặp gỡ quí báu này! Xin hãy tín nhiệm đức tin, vốn là người bạn thân của trí tuệ! Xin hãy để ánh sáng đức tin soi sáng quý vị ngõ hầu nắm được chân lý, toàn thể chân lý. Ðó là lời cầu chúc, sự khích lệ và hy vọng mà các Nghị Phụ trên khắp thế giới họp Công Ðồng tại Roma gửi tới quí vị trước giờ phút chia tay.

 

Hồng Y L. Suénens tuyên đọc:

Gửi Giới Văn Nghệ Sĩ

17. Giờ đây, chúng tôi xin ngỏ lời với quí vị văn nghệ sĩ, những người say mê và phục vụ cái đẹp: quí vị là những thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, điều khắc gia, kiến trúc sư, nhạc sĩ, diễn viên cũng như chuyên viên kịch nghệ và điện ảnh... Qua tiếng nói của chúng tôi, Công Ðồng Giáo Hội xin ngỏ lời với toàn thể quí vị: nếu yêu chuộng nghệ thuật chân chính thì quí vị là bạn hữu của chúng tôi.

Ðã từ lâu, Giáo Hội liên kết với quí vị. Quí vị đã xây dựng và trang hoàng những đền thờ, suy tôn các tín điều, làm giàu cho phụng vụ của Giáo Hội. Quí vị đã giúp đỡ Giáo Hội diễn tả sứ điệp thánh của mình ra ngôn ngữ hình thể và sắc thái, khiến cho thế giới vô hình có thể được cảm nhận.

18. Ngày nay cũng như trong quá khứ, Giáo Hội vẫn cần đến quí vị và hướng về quí vị. Qua tiếng nói của chúng tôi, Giáo Hội ngỏ lời cùng quí vị: xin đừng để tan vỡ mối liên kết phong phú tột bực. Xin đừng chối từ đem tài năng ra phụng sự chân lý Thiên Chúa. Xin đừng đóng cửa tinh thần quí vị trước hơi thở của Thánh Thần Chúa!

Thế giới chúng ta sống ngày nay đang cần đến cái đẹp để khỏi chìm đắm vào thất vọng. Cái đẹp, cũng như sự thật mang lại niềm vui cho tâm hồn con người, đó chính là những hoa trái quí giá không tàn úa vì thời gian nhưng nối kết các thế hệ lại và làm cho họ thông cảm nhau khi thán phục nhau. Công trình ấy là do bàn tay của quí vị...

19. Ước mong những bàn tay ấy được thanh sạch, vô vị lợi! Xin hãy nhớ rằng quí vị là những người bảo vệ cái đẹp trong thế giới: mong rằng chỉ điều đó cũng đủ khiến quí vị vượt qua những thị hiếu phù du không có giá trị đích thức, đủ khiến quí vị tránh tìm những lối diễn tả dị kỳ và bất nhã.

Ước chi lúc nào và chỗ nào quí vị cũng vẫn xứng đáng với lý tưởng mình để rồi sẽ xứng đáng với Giáo Hội, mà ngày hôm nay qua tiếng nói của chúng tôi, xin gửi đến quí vị sứ điệp thân hữu, cứu độ, ân phúc và chúc lành.

 

Hồng Y L. Duval tuyên đọc:

Gửi Giới Phụ Nữ

20. Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới thuộc hết mọi thành phần: các thiếu nữ, các người vợ, người mẹ, các quả phụ, cả những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa và các người ở độc thân: tất cả quí vị chiếm một nửa đại gia đình nhân loại.

Như quý bà và chị em đã biết, qua các thời đại, Giáo Hội hãnh diện vì đã làm vẻ vang và giải phóng người phụ nữ, đã làm nổi bật trong sự khác biệt phái tính sự bình đẳng căn bản của Nữ giới với Nam giới.

Nhưng bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người nữ được thể hiện hoàn toàn. Ðây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng, một sự phát huy và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có trong xã hội.

Vì thế, trong khi nhân loại đang trải qua một biến động sâu xa như lúc này, những phụ nữ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm có thể giúp đỡ rất nhiều cho nhân loại thoát khỏi sự suy đồi.

21. Quý bà và chị em bao giờ cũng góp phần bảo vệ gia đình, tuôn chảy nguồn yêu thương và dưỡng dục trẻ thơ. Quý bà và chị em hiện diện lúc mầu nhiệm sự sống bắt đầu và ủi an trong giờ cuộc đời chấm dứt. Nền kỹ thuật của chúng ta có thể trở nên vô nhân đạo nên xin quý bà và chị em hãy hòa giải con người với sự sống. Nhất là chúng tôi tha thiết thỉnh cầu quý bà và chị em hãy săn sóc đến tương lai của giống nòi chúng ta. Hãy giữ tay người đàn ông lại nếu trong một phút điên cuồng họ muốn tiêu hủy nền văn minh nhân loại.

Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình, xin truyền thụ cho con trai con gái quý bà những truyền thống của cha ông chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho chúng một tương lai xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên người mẹ góp phần vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được nhìn thấy.

Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức rằng chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mệnh phục vụ của mình. Xã hội khắp nơi đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể sinh hoạt nếu gạt bỏ sự trợ giúp của những người không lập gia đình.

Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái lạc muốn trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong sạch, lòng vô vị lợi và tinh thần đạo đức. Chúa Giêsu, Ðấng đã ban cho tình yêu vợ chồng trọn vẹn ý nghĩa của nó cũng đã đề cao sự từ khước tình yêu nhân loại này khi nó hướng về tình yêu vô biên và nhằm phục vụ mọi người.

Sau cùng, hỡi những người đang bị thử thách, quý bà và chị em đang đứng thẳng dưới chân thánh giá như Ðức Maria, biết bao lần trong lịch sử, quý bà và anh chị em đã mang lại cho người đàn ông sức mạnh để chiến đấu tới cùng, đã giúp họ làm chứng nhân ngay cả tử vì đạo, một lần nữa xin hãy giúp họ can đảm làm những công cuộc lớn, đồng thời biết kiên nhẫn và biết bắt đầu bằng những công việc nhỏ.

22. Hỡi tất cả phụ nữ, quý bà và chị em biết cách làm cho chân lý trở nên êm ái, dịu dàng, dễ hiểu, xin hãy chuyên chú làm cho tinh thần Công Ðồng được thấm nhập vào cơ cấu, trường học, gia đình và đời sống hằng ngày.

Hỡi các phụ nữ trên toàn thế giới thuộc Kitô giáo hay vô tín ngưỡng, sự sống đã được giao phó cho quý vị trong phút giây lịch sử nghiêm trọng này, quý bà và chị em có nhiệm vụ cứu vãn nền hòa bình thế giới.

 

Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc:

Gửi Giới Lao Ðộng

23. Trong suốt Công Ðồng này, chúng tôi, các Giám Mục Công Giáo khắp năm châu, đã cùng nhau suy nghĩ những vấn đề nghiêm trọng trong số bao nhiêu đề tài khác đặt ra trước lương tâm nhân loại do những điều kiện kinh tế xã hội của thế giới ngày nay, vấn đề sống chung giữa các quốc gia, vấn đề võ trang, chiến tranh và hòa bình. Chúng tôi hoàn toàn ý thức rằng cách thức giải quyết những vấn đề này có thể ảnh hưởng đến đời sống cụ thể của nam nữ công nhân trên khắp thế giới. Vì thế, sau những phiên thảo luận, chúng tôi mong ước gửi đến tất cả anh em lao động một sứ điệp tín cẩn, hòa bình và thân hữu.

Hỡi những người con rất thân mến, thoạt tiên xin hãy yên trí rằng Giáo Hội hiểu biết những nỗi thống khổ, cuộc tranh đấu, niềm hy vọng của anh em. Giáo Hội rất khâm phục những đức tính làm cho tâm hồn anh em nên cao đẹp, đó là lòng can đảm, sự tận tụy, lương tâm nghề nghiệp, lòng yêu chuộng công bình. Giáo Hội nhìn nhận đầy đủ những sự phục vụ lớn lao anh em đã mang lại cho xã hội khi mỗi người ở địa vị mình, và đôi khi trong những địa vị khiêm tốn nhất, bị khinh rẽ nhất, Giáo Hội rất hài lòng và xin cảm tạ anh em qua tiếng nói của chúng tôi.

24. Trong những năm vừa qua, Giáo Hội không ngừng lưu tâm đến những vấn đề càng ngày càng phức tạp của thế giới lao động. Tiếng vọng từ trong hàng ngũ lao động đối với những thông điệp vừa qua của các Ðức Giáo Hoàng đã chứng tỏ tâm hồn người lao động ngày nay hòa hợp mật thiết với các vị lãnh đạo tinh thần cao cả nhất của mình.

Ðức Gioan XXIII, Ðấng làm giàu cho gia tài Giáo Hội bằng những sứ điệp trứ danh, đã tìm ra được ngôn ngữ thấu đến tâm hồn anh em. Nơi con người của ngài, ngài đã làm sáng tỏ tất cả tình yêu của Giáo Hội đối với người lao động cũng như đối với chân lý, công bình, tự do, bác ái, là những nền tảng xây dựng hòa bình thế giới.

25. Cũng trong tinh thần ấy, chúng tôi cũng muốn được tỏ bày lòng yêu mến của Giáo Hội đối với anh em, những người lao động, và với tất cả lòng xác tín chân thành, chúng tôi xin nói với anh em rằng: Giáo Hội là bạn của anh em. Xin hãy tín cẩn vào Giáo Hội! Trong quá khứ, những hiểu lầm đáng tiếc đã kéo dài quá lâu sự nghi kỵ và sự bất đồng giữa chúng ta; Giáo Hội và giới thợ thuyền đều phải đau khổ vì việc đó. Ngày nay, giờ hòa giải đã điểm, và nhờ tinh thần của Công Ðồng Giáo Hội mời gọi anh em hoan hỉ cử hành giờ đó với tất cả sự tin tưởng thành thực.

Giáo Hội luôn luôn cố tìm để hiểu rõ anh em hơn. Nhưng anh em cũng phải tìm hiểu Giáo Hội là gì đối với anh em, những người lao động, những tay thợ chính yếu đang thực hiện các biến đổi lạ lùng cho thế giới ngày nay. Anh em quá biết rằng: nếu một luồng linh khí mãnh liệt không phổ vào những biến đổi này, chúng ta sẽ trở thành tai họa cho nhân loại thay vì mang lại hạnh phúc cho họ. Không phải hận thù sẽ cứu vớt thế giới! Không phải chỉ có cơm bánh trần gian có thể làm no thỏa cơn đói của con người!

Vì thế, hãy đón nhận sứ điệp của Giáo Hội. Hãy đón nhận đức tin được Giáo Hội hiến dâng cho anh em để soi đường dẫn lối. Ðó là đức tin của vị kế nghiệp Thánh Phêrô và của hai ngàn Giám Mục họp lại nơi Công Ðồng, đó là đức tin của toàn dân Chúa. Mong Ðức Tin ấy soi sáng cho anh em, dẫn lối cho anh em, làm cho anh em hiểu biết Chúa Giêsu, bạn đồng lao với anh em, là Thầy và là Ðấng Cứu Ðộ của toàn thể nhân loại.

 

Hồng Y P. Méouchi tuyên đọc:

Gửi Người Nghèo, Bệnh Tật Và Ðau Khổ

26. Ðối với tất cả các bạn, những anh em đang bị thử thách, đang bị đau khổ dày vò dưới muôn hình vạn trạng. Công Ðồng xin gửi đến một sứ điệp đặc biệt.

Công Ðồng cảm thấy anh em đang ngóng nhìn về mình với những con mắt cầu khẩn, sáng rực vì cơn sốt hoặc đờ đẫn vì mệt nhọc, những cái nhìn dò hỏi đang vô vọng tìm hiểu tại sao con người lại đau khổ hay đang lo âu tự hỏi xem bao giờ và tự đâu sẽ có nâng đỡ.

Anh em rất thân mến, chúng tôi cảm thấy rất sâu đậm những lời rên siết và than thở của anh em đang vang lên trong lòng những người cha và chủ chăn của chúng tôi, chúng tôi càng buồn sầu khi nghĩ rằng mình không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn bên ngoài cho anh em như các bác sĩ, y tá và tất cả những người săn sóc bệnh nhân đang cố gắng tận tình cứu chữa.

27. Nhưng chúng tôi có một cái gì sâu xa hơn, quí giá hơn để mến tặng anh em, một chân lý duy nhất có thể trả lời cho mầu nhiệm đau khổ và mang lại cho anh em sự an ủi chân thật: đó là đức tin và sự kết hiệp với con người đau khổ là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng bị đóng đinh vì tội lỗi cũng như để cứu rỗi chúng ta.

Chúa Kitô đã không diệt trừ đau khổ. Người cũng không muốn vén lên hoàn toàn chiếc màn mầu nhiệm của đau khổ cho chúng ta: Người lại nhận đau khổ cho mình và vì thế đã quá đủ cho chúng ta hiểu rõ giá trị của đau khổ.

Hỡi tất cả anh em, những người đang cảm thấy thập giá đè nặng, những người nghèo túng, bị bỏ rơi, những người đang khóc lóc, đang bị bách hại vì sự công chính, những người không được ai nói đến, những người đau khổ vô danh, xin hãy lấy lại can đảm. Anh em là những người được ưu đãi trong nước Chúa, nước có hy vọng, hạnh phúc và sự sống. Anh em là những người em của Chúa Kitô đau khổ và nếu anh em muốn, anh em cùng cứu vớt thế gian với Người.

Ðó là học thuyết Kitô giáo về đau khổ, học thuyết duy nhất mang lại bình an. Xin biết chắc chắn rằng anh em không cô độc, không bị loại trừ, bị bỏ rơi hoặc bị coi là vô dụng. Trái lại anh em là những người được Chúa Kitô kêu gọi, là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa. Nhân danh Chúa, Công Ðồng âu yếm chào thăm anh em, cảm ơn và đoan chắc với anh em về tình thân hữu, về sự giúp đỡ của Giáo Hội và chúc phúc lành cho anh em.

 

Hồng Y G. Agagianian tuyên đọc:

Gửi Giới Trẻ

28. Sau hết Công Ðồng muốn gửi cho các bạn thanh niên và thiếu nữ toàn thế giới bức sứ điệp sau cùng vì chính các bạn sắp được nhận lấy ngọn đuốc từ tay phụ huynh và sẽ sống trong thế giới vào lúc diễn ra những biến đổi vĩ đại nhất của lịch sử. Chính các bạn, trong khi thừa hưởng phần tốt nhất của gương sáng và giáo huấn nơi cha mẹ cũng như thầy dạy, các bạn đang tiến tới việc kiến tạo xã hội ngày mai: các bạn sẽ tự cứu được mình hay sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy.

Ròng rã bốn năm qua, Giáo Hội đã làm việc để làm trẻ lại khuôn mặt mình, sao cho mỗi ngày một phù hợp với ý định của Ðấng sáng lập, Ðấng Hằng Sống Cao Cả là Chúa Kitô muôn đời trẻ trung. Vào phút chót cuộc "duyệt lại đời sống" quan trọng này, Giáo Hội hướng về các bạn. Chính cho những người trẻ các bạn, phải, đặc biệt cho các bạn mà Giáo Hội qua Công Ðồng vừa thắp lên một ánh sáng: ánh sáng soi cho tương lai, tương lai đời các bạn.

29. Giáo Hội lưu tâm muốn cho xã hội các bạn sắp thiết lập biết tôn trọng phẩm giá, tự do, quyền lợi của con người, cũng là chính con người các bạn.

Giáo Hội đặc biệt lưu tâm làm sao cho xã hội này sẽ để cho cái kho tàng luôn luôn cổ kính và luôn luôn mới mẻ là đức tin được nảy nở, và sao cho tâm hồn các bạn có thể tự do tắm gội trong ánh sáng tốt lành của nó. Giáo Hội tin tưởng rằng: các bạn sẽ gặp được một sức mạnh và một niềm vui lớn lao đến độ các bạn sẽ không bị quyến rũ như một số đàn anh, buông mình theo những triết thuyết ích kỷ và khoái lạc, thất vọng và hư vô, đ thời đứ?rước chủ nghĩa vô thần, hiện tượng của suy nhực và già cỗi, các bạn có thể củng cố lòng mình tin tưởng ở đời và tin chân lý làm cho đời sống có một ý hướng: đó là xác tín có một Thiên Chúa công bình và tốt lành.

30. Chính nhân danh Thiên Chúa và Con Ngài là Chúa Giêsu, chúng tôi khuyên các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra tới mọi chiều hướng của thế giới, lắng nghe tiếng gọi của các anh em và đem những nghị lực trẻ trung ra phục vụ cho họ.

Hãy chiến đấu chống mọi ích kỷ. Hãy chống lại, đừng tự buông thả theo các bản năng hung bạo và hận thù, là mầm mống gây nên chiến tranh và biết bao điều khốc hại khác. Xin hãy đại độ, trong sạch, kính cẩn và chân thành. Xin hãy đem nhiệt huyết ra xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới của đàn anh các bạn!

Giáo Hội nhìn đến các bạn với lòng đầy tín cẩn và yêu thương. Vốn mang một dĩ vãng lâu dài và hằng sống động trong mình đồng thời luôn luôn đi tới sự hoàn thiện nhân loại qua thời gian cũng như vừa tiến tới những chân trời sau cùng của lịch sử và sự sống. Giáo Hôi là sự trẻ trung đích thực của thế giới. Giáo Hội mang vốn liếng làm nên sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi trẻ: đó là khả năng biết hoan hỉ trước những gì mới bắt đầu, biết cho đi mà không mong trả lại, biết tự đổi mới và ra đi tìm những chinh phục mới. Xin hãy nhìn Giáo Hội và các bạn sẽ khám phá ra khuôn mặt Chúa Kitô, vị anh hùng chân chính, khiêm tốn và khôn ngoan, vị ngôn sứ của chân lý và tình yêu, là bạn đường và bạn thân của người trẻ. Nhân danh chính Chúa Kitô chúng tôi chào thăm, khuyên nhủ và chúc lành cho các bạn.

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC VÀ GIA ĐÌNH GIÁO XỨ

 

Đề bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin ghi lại nơi đây ý nghĩ của con người thời nay về linh mục:

Nếu cha giảng dài quá mười phút, người ta sẽ bảo cha chỉ thao thao bất tuyệt. Nếu cha mời gọi suy niệm về Thiên Chúa, người ta sẽ bảo cha chỉ nói những chuyện trên mây trên gió. Còn nếu cha đề cập đến những vấn đề xã hội, người ta sẽ bảo cha khuynh tả. Nếu cha suốt ngày ở trong nhà xứ, người ta sẽ bảo cha khép kín. Còn nếu cha năng đi thăm viếng các gia đình, người ta sẽ bảo địa chỉ thường trú của cha là ngoài đường. Nếu cha sửa sang nhà thờ, người ta sẽ bảo cha chỉ lo xây rồi… cất. Còn nếu cha không tu bổ gì, người ta sẽ bảo cha cù lần. Nếu cha cộng tác chặt chẽ với ban hành giáo, người ta sẽ bảo cha bị xỏ mũi. Còn nếu cha không tha thiết gì với ban hành giáo, người ta sẽ bảo cha độc tài. Nếu cha niềm nở, người ta sẽ bảo cha quá dễ dãi. Còn nếu cha lơ đãng quên chào hỏi, người ta sẽ bảo cha khinh người. Nếu cha còn trẻ, người ta sẽ bảo cha chẳng có kinh nghiệm. Còn nếu cha đã có tuổi, người ta sẽ bảo cha xin đi hưu là vừa.

Đúng là “ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê” và “bạc như dân, bất nhân như lính”. Vậy chúng ta, linh mục cũng như giáo dân, phải sống chung với nhau như thế nào để giáo xứ thực sự trở nên một gia đình.

Thế nhưng trước hết giáo xứ là gì ?

1- GIÁO XỨ

Chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn, trong một xã hội. Về phương diện tôn giáo, cộng đoàn đầu tiên, xã hội đầu tiên chúng ta sống với, đó là gia đình, tiếp đến là giáo xứ.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong tông huấn “Ecclesia in Asia”, về Giáo hội tại Á Châu, đã đưa ra một định nghĩa như sau :

“Giáo xứ là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống màu nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội.” (EA 25).

Tuy nhiên, Công đồng mong muốn chúng ta biến giáo xứ trở thành một cộng đoàn, một gia đình được xây dựng trên nền tảng của tình bác ái  huynh đệ :

- “Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Đức Kitô mục tử và thủ lãnh, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn, và nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha.” (LG 28).

Cũng vậy, trong sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục, Công đồng cũng xác quyết :

- “Thi hành chức vụ của Đức Kitô là đầu và là chủ chăn theo phận vụ mình, các linh mục nhân danh Giám mục, tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần, các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha.” (PO 6).

Để ước mơ trên được trở thành sự thật, thiết tưởng cần phải xây dựng tốt đẹp những mối liên hệ :

- Giữa linh mục với giáo dân.

- Giữa giáo dân với linh mục.

- Giữa giáo dân với nhau. 

2- MỐI LIÊN HỆ GIỮA LINH MỤC VỚI GIÁO DÂN.

Như chúng ta đã biết : giáo xứ là một cộng đoàn, là một xã hội vì thế phải có những người đứng đầu, những vị lãnh đạo. Người đứng đầu và lãnh đạo trong giáo xứ  chính là các linh mục.

Nếu giáo xứ là một gia đình, thì linh mục chính là một người cha  và người cha ấy có bổn phận phải phục vụ dân Chúa :

- “Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Đức Kitô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép Thánh tẩy và giáo huấn.” (LG 28).

- “Là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám mục, linh mục được kêu gọi để phục vụ dân Thiên Chúa.” (LG 28).

Hẳn chúng ta còn nhớ, trong Phúc âm có lần Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ :

- “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. (Mt 20,26-28).

Vì thế, mọi chức vụ trong Giáo hội là để phục vụ, kể cả chức vụ Linh mục :

“Các chủ chăn trong Giáo hội noi gương Chúa phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác.” (LG số 32).

Trong việc phục vụ, linh mục phải ưu tiên chu toàn những bổn phận của chức vụ mình :

- “Nhờ bí tích truyền chức thánh, linh mục được cung hiến theo hình ảnh Đức Kitô, thày cả Thượng phẩm vĩnh viễn, để rao giảng Phúc âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân ước.” (LG 28).

Những bổn phận ấy là :

* Giáo huấn :

- “Vất vả truyền giáo và dạy dỗ, linh mục tin những gì mình ngài đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật Chúa, dạy dỗ những điều mình tin và thực hành những điều mình dạy.” (LG 28).

- “Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự vào nhiệm vụ Đức Kitô, các linh mục loan báo lời Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng các ngài thực thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất trong thánh lễ, hoặc cộng đồng tạ ơn, trong đó các ngài thay thế Đức Kitô công bố mầu nhiệm của Chúa…” (LG 28).

* Thánh hóa  qua việc trao ban các bí tích :

- “Giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào các ơn trợ lực chứa đựng trong các kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, đặc biệt là Lời Thiên Chúa và các bí tích.” (LG 37).

- “Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ giao hòa và an ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật.” (LG 28).

* Cai quản :

- “Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Đức Kitô mục tử và thủ lãnh, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn, và nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha.” (LG 28).

Để việc phục vụ gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thiết tưởng linh mục cần phải :

* Tìm hiểu đoàn chiên :

- “Trong khi chu toàn nhiệm vụ chủ chăn, trước tiên các ngài hãy quan tâm tìm hiểu đoàn chiên riêng của mình. Vì là kẻ phục vụ hết mọi con chiên, các ngài hãy giúp cho đời sống Kitô giáo được thăng tiến nơi từng giáo hữu, trong gia đình, trong các hiệp hội đặc biệt liên hệ tới việc tông đồ vàcả trong toàn thể cộng đoàn giáo xứ.” (CD 30).

* Gần gũi với đoàn chiên :

- “Các linh mục Tân ước, do ơn gọi và chức thánh, một cách nào đó được tuyển chọn ngay giữa Dân Chúa, nhưng không phải để tách biệt khỏi họ hoặc bất cứ một người nào, mà để tận hiến làm công việc Chúa đã chọn họ làm…Chính thừa tác vụ của các ngài, vì mang một danh nghĩa đặc biệt, nên đòi buộc các ngài không được theo thói thế gian, nhưng đồng thời lại đòi hỏi các ngài sống trong thế gian giữa loài người.” (PO 3).

* Đối xử khoan dung với mọi người :

- “Trong việc kiến thiết này, linh mục phải theo gương Chúa mà đối xử rất nhân đạo đối với hết mọi người. Tuy  nhiên, khi dạy dỗ và khuyên bảo họ như những người con rất yêu quí, các ngài phải đối xử với họ không phải theo sở thích loài người, nhưng theo giáo thuyết và đời sống Kitô giáo đòi hỏi, như lời thánh Tông đồ : hãy nhấn mạnh khi thuận tiện cũng như khi bất tiện, hãy khiển trách, đe dọa, khuyến khích, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.” (CD 6).

* Cách riêng, ngài phải quan tâm tới :

- Những người nghèo : “Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hãy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo cảm nhận được mình là một thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.” (EA 25). “Tuy mắc nợ hết mọi người, nhưng các linh mục phải đặc biệt săn sóc những người nghèo khổ và yếu đuối được trao phó cho mình : vì chínnh Chúa đã tỏ ra là bạn hữu với họ và coi việc rao giảng Phúc âm cho họ là dấu hiệu cho công cuộc cứu thế”. (PO 6).

- Giới trẻ : “Thượng Hội Đồng lưu ý đặc biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác.” (EA 25). “Các linh mục cũng phải đặc biệt tận tâm theo dõi các thanh thiếu niên, ngay cả những người đã có đôi bạn và những bậc phụ huynh, để ước gì họ họp thành những nhóm bạn hữu biết giúp đỡ nhau sống đời Kitô giáo một cách dễ dàng và đầy đủ hơn trong cuộc sống đầy khó khăn.” (PO 6).

- Những người bỏ đạo : “Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép thanh tẩy trong Giáo hội công giáo, nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay đã mất đức tin.” (LG 28).

- Những cộng đoàn “nhỏ và  đẹp” :

“Các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới giá trị của các cộng đoàn Giáo hội cơ bản như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông và cộng tác trong các giáo xứ  và giáo phận như một lực lượng thực sự cho công cuộc phúc âm hóa. Những tập thể này còn giúp các đoàn viên Tin mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương.” (EA 95).

* Làm gương sáng cho giáo dân :

- “Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (1Cor 1,2; 2Cor 1,1), là danh hiệu riêng biệt  của toàn thể dân  Thiên Chúa là dân duy nhất.” (LG 28).

* Cộng tác với giáo dân :

- “ Các ngài phải hợp tác với giáo dân và sống giữa môi trường của họ theo gương Thày, Đấng đến ở giữa mọi người “không để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống thay cho nhiều người.” (PO 9).

Tuy nhiên, để tạo được một sự cộng tác chân thành với giáo dân, các linh mục cần phải :

- Chấp nhận vai trò của giáo dân trong cộng đoàn Dân Chúa : “Phần các vị chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá  và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội.” (LG 37). “Các linh mục cần phải nhìn nhận và khích lệ phẩm giá và vai trò riêng của giáo dân trong sứ mệnh Giáo hội.” (PO 9).

- Tôn trọng và lắng nghe bởi vì giáo dân hôm nay tương đối đã trưởng thành, không còn thái độ “gọi dạ bảo vâng“ như ngày xưa, vì   thế : “ Các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.” (LG 38). “Các ngài cũng phải thành thật kính trọng sự tự do chân chính mà mọi người có quyền được hưởng trong xã hội trần gian. Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân sinh, để cùng với họ có thể nhận biết những dấu chỉ thời đại.” (PO 9).

- Chấp nhận những ý kiến đóng góp : “Các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ.” (LG  37).

- Tìm hiểu  những khát vọng của họ để đưa ra những chương trình mục vụ thích hợp : “Với tinh thần cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ.” (LG 37).

- Phải tín nhiệm và trao cho họ những công việc cụ thể cần phải làm : “Các ngài nên tin cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động. Hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm.” (LG 37). “Các ngài phải tin tưởng trao phó nhiệm vụ cho các giáo dân trong việc phục vụ Giáo hội, để cho họ được tự do và có lãnh vực hoạt động, hơn nữa lúc thuận tiện, phải khuyến khích họ tự ý đảm trách công việc.” (PO 9).

- Dung hòa mọi khuynh hướng trong giáo xứ : “Các linh mục được đặt giữa giáo dân để dẫn đưa mọi người về hiệp nhất trong đức ái “hãy yêu thương nhau với tình bác ái huynh đệ, thi đua tôn trọng lẫn nhau” (Rm 12,10). Vậy các ngài phải tìm cách hòa hợp  các khuynh hướng khác nhau, để không ai cảm thấy mình xa lạ trong cộng đoàn tín hữu.” (PO 9).

3- MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁO DÂN VỚI LINH MỤC

Công đồng đã định nghĩa :

- “Giáo dân là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo hội công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân thể Chúa Kitô nhờ phép Thanh tẩy, đã trở nên dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.” (LG 31).

Là phần tử của Giáo hội, người giáo dân cũng có bổn phận góp phần vào sự phát triển của Giáo hội :

- “Mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.” (LG  30).

Thực vậy, nét đặc sắc của người giáo dân đó là họ sống giữa trần gian : Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân (LG 31). Họ đem lại nhiều lợi ích cho Giáo hội : Các chủ chăn của Dân thánh biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo hội (LG 30). Nhưng theo phương thế riêng của mình bởi vì họ sống giữa lòng cuộc đời :

- “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như trong từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội : tất cả những thứ đó dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm, như men bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình…” (LG 31).

- “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động  nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” (LG 33).

Họ làm chứng bằng chính cuộc sống cá nhân và gia đình của  họ :

- “Công cuộc rao giảng Phúc âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và một hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian.” (LG 35).

- “Có một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy.” (GH số 35).

Như vậy, “trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc âm Chúa đã tuyên bố là có phúc. Tóm lại, người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống.” (LG 33).

Tuy nhiên. Trong phạm vi nhỏ hẹp của một giáo xứ, người giáo dân cần phải có những thái độ, những cách cư xử như thế nào đối với các linh mục của mình ?

Như một đứa con trong gia đình, người giáo dân có bổn phận   phải :

*  Trọng kính :

- “Các Kitô hữu phải ý thức rằng mình có trách nhiệm đối với các linh mục của mình và phải lấy lòng hiếu thảo mà đối xử với các ngài như những chủ chiên và như cha mình vậy.” (PO 9).

* Chia sẻ và giúp đỡ :

- “Họ phải chia sẻ những lo âu của các ngài, giúp đỡ các ngài bằng lời cầu nguyện và bằng việc làm, càng nhiều càng hay, để các ngài có thể thắng vượt những khó khăn một cách dễ dàng hơn, và chu toàn trách vụ của mình một cách hữu hiệu hơn.” (PO 9).

* Cộng tác :

- “Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân Thiên Chúa, thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ chung.” (LG 32).

- “Phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác với các chủ chăn và những người giảng dạy.” (LG 32).

- “Giáo dân còn được mời gọi góp phần trực tiếp bằng nhiều cách và công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm.” (LG 33).

Tuy nhiên, để sự cộng tác được tốt đẹp và mang lại lợi ích, người giáo dân cần phải thẳng thắn trình bày những ý kiến xây dựng của mình :

- “Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tin cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo hội.” (LG 37).

* Chấp nhận những quyết định của các vị chủ chăn :

- “Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô đã quyết định với tư cách những thày dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô đấng đã vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người.” (LG 37).

* Cầu nguyện :

- “Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỉ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ.” (LG 38).

Sau khi đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa linh mục với giáo dân, cũng như giữa giáo dân với linh mục, chúng ta sẽ nói qua về mối liên hệ giữa giáo dân với nhau, để cộng đoàn giáo xứ thực sự là một mái gia đình thân thương.

4- MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁO DÂN VỚI NHAU.

Trong gia đình giáo xứ, người giáo dân chính là anh em của nhau, vì thế cần phải sống tình bác ái huynh đệ như lời Chúa đã dạy :

- “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.” (Gio 13,35).

Để thực thi tình bác ái huynh đệ ấy, nhiều giáo xứ đã có những sinh hoạt rất độc đáo, chẳng hạn như : quĩ tương trợ khi có người chết, quĩ học bổng giúp các em học sinh nghèo vượt khó…

Tuy nhiên, chỉ xin nhấn mạnh một điều, đó là ngoài việc giúp đỡ nhau về vật chất, chúng ta còn phải giúp đỡ nhau về tinh thần, hay nói một cách cụ thể hơn giúp nhau sống đạo, giúp nhau nên thánh như Công đồng mong mỏi :

- “Giáo dân phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.” (LG 36). 

KẾT LUẬN

Xin mượn lời Công đồng như một kết luận cho mối liên hệ tốt đẹp giữa linh mục và giáo dân, cũng như giữa giáo dân và linh mục, để giáo xứ được trở nên một cộng đoàn yêu thương, một gia đình êm ấm, cũng như sẽ đem lại những hoa trái tốt đẹp cho Giáo hội :

- “Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo hội : Thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức  dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian.” (LG  38).

GSVN

VỀ MỤC LỤC
ÐỒNG HÌNH HAY BIẾN HÌNH

 

Phúc Âm Nhật Ký ngày 04.03.2007

(Lc 9: 28b-36)

Mùa Chay là cơ hội giúp tín hữu cố gắng đi sâu vào mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh.  Thế nhưng, đó cũng là dịp truyền thông Hoa kỳ tung ra cuốn phim tài liệu “Ngôi Mộ Thất Lạc của Ðức Giêsu.”  Mục đích phủ nhận sự kiện Phục sinh và xóa bỏ niềm tin Kitô trong lòng hai tỉ tín hữu trên thế giới. Phải chăng đó là lần đầu tiên kỹ nghệ phim ảnh hợp tác với khảo cổ học lũng đoạn và phá hủy các giáo hội Kitô ?  Nếu sự thật đúng như họ công bố, chẳng còn gì để nói về biến cố Hiển dung hôm nay.  Ánh sáng Hiển dung chỉ có ý nghĩa và giá trị khi dẫn đến ánh sáng Phục sinh mà thôi.

Sự thật vẫn là sự thật.  Các nhà khảo cổ Do thái hoàn toàn bác bỏ tài liệu khảo cổ đó, vì chứng cứ mâu thuẫn.  Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh đã được năm trình thuật dẫn chứng nghiêm nhặt trong Tân Ước về những lần Chúa hiện ra: bốn trình thuật trong Tin Mừng và một do thánh Phaolô.  Các môn đệ đã làm chứng và hy sinh mạng sống vì Chúa Phục sinh.[1]

Cách đây hơn hai ngàn năm, các tông đồ đã trải qua những thách đố lớn lao khi Ðức Giêsu sửa soạn bước vào những ngày đen tối nhất cuộc đời.  Mấy ai vững bước trong đêm trường ?!  Bởi thế, Ðức Giêsu muốn dẫn các môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao để chứng kiến tất cả vinh quang và cảm nghiệm mối thâm tình giữa Chúa Cha và Chúa Con.  Nhờ đó, họ thấy được tất cả nền tảng niềm hy vọng đã đặt nơi Ðức Giêsu.

Còn hơn thế, họ được phép đi vào tương quan thâm sâu giữa Cha Con.  Quả thực, họ như lạc vào trong đám mây, tức là sống giữa sự hiện diện của Thiên Chúa.  Họ đã ra khỏi môi trường sống bình thường của trần thế.  Họ lọt vào thế giới Thiên Chúa.  Ðó là lý do tại sao “các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34)  Mới nhìn thấy “vinh quang của Ðức Giêsu,” (Lc 9:32) chiếu tỏa rực rỡ giữa hai ông Môsê và Êlia, ông Phêrô đã lạc giọng và không kiểm soát nổi mình.  Vậy khi các ông chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa trên đỉnh non cao, bút mực nào có thể diễn tả ?

Khi được đưa vào cõi Thiên Chúa, các ông mới thấy nguyên hình Ðức Giêsu.  Ánh sáng lúc này phải tăng tới độ vô cùng mới diễn tả được vinh quang và địa vị Con Thiên Chúa của Ðức Giêsu. Lúc này không phải Ðức Giêsu tự làm chứng nữa, nhưng chính Chúa Cha xác nhận địa vị cao cả vô cùng của Chúa Con.  Không có lời chứng nào chính xác và giá trị hơn !  Tình yêu Chúa Cha mãnh liệt đến độ Chúa Con đã “lọt mắt xanh” Chúa Cha, được tuyển chọn để trở thành Thiên Sai giữa trần thế.

Như thế, khi xuống trần gian, Ðức Giêsu đã được Chúa Cha tin tưởng tuyệt đối, đến nỗi trở thành mẫu mực và phát ngôn chính thức của Chúa Cha.  Tin tưởng tuyệt đối đến nỗi Chúa Cha phải phán với các môn đệ : “Hãy vâng nghe lời Người !” (Lc 9:35)   Con tim Chúa cũng có cùng một nhịp đập khi nghe tiếng nói tương tự của Ðức Mẹ trong tiệc cưới Cana : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2:5)

Uy thế Chúa Giêsu chưa bao giờ lên cao như vậy.  Nếu muốn lên cao như Chúa, các môn đệ cũng phải biến hình nhờ sức mạnh thần khí và sự sống Thiên Chúa, tức là Lời Chúa (x. Ga 6:63)  .  Ðó là lý do tại sao Chúa Cha truyền cho các môn đệ phải vâng giữ Lời Chúa.   Lời Chúa sẽ thực hiện cuộc biến đổi sâu xa và toàn diện nơi những ai thực tâm sống Lời Chúa.  Cuộc biến đổi này cũng giống như việc Chúa biến hình hôm xưa.

Cuộc biến hình này mau qua.  Cuộc biến hình và hiển vinh miên viễn chỉ đến qua những đau khổ của Ðức Giêsu, một đề tài được trao đổi giữa Chúa và hai vị khách từ thiên giới (Lc 9:31). “Hình như các thánh sử cũng cho thấy sự liên kết giữa những đau khổ và vinh quang của Ðức Kitô, vì cuộc Biến hình được đặt trong bối cảnh lời tiên báo đầu tiên về cuộc Thương khó, cái chết và sự Phục Sinh (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22).”[2]   Nếu cuộc Thương khó và cái chết chứng tỏ Ðức Kitô đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) Thiên Chúa, thì biến cố Hiển dung và Phục Sinh mạc khải Ðức Giêsu là Ðức Chúa.  Người đến thực hiện những Lời Kinh Thánh (x. Lc 24:44-48) và lời các tiên tri về Ðấng Thiên Sai, Ðầy Tớ Ðức Giavê và Con Người.  Qua Ðức Giêsu, Thiên Chúa thực hiện những điều đã hứa và đến ở giữa dân Người.  Ðồng thời, biến cố Hiển dung xác nhận lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Cesarea Philiphê (Mt 16:16).  Ánh sáng Hiển dung còn mạc khải Con Người Ðức Giêsu có cùng một vinh quang với Thiên Chúa Cha.

Muốn chung hưởng vinh quang với Ðức Giêsu, Kitô hữu phải gặp gỡ Người trong bí tích và tham dự vào mầu nhiệm sự chết và Phục sinh của Người, một mầu nhiệm được báo trước trong biến cố Hiển dung hôm nay.  Ngay bây giờ, Kitô hữu phải luôn luôn và không ngừng để Chúa Thánh Linh tác động (2Cr 3:18) hầu hoàn toàn biến hình, đợi ngày phục sinh vinh quang của toàn thể vũ trụ khi Chúa đến lần thứ hai.  Trước khi vui hưởng vinh quang cuối cùng, và được biến hình với Ðức Kitô, họ phải nên đồng hình (đồng dạng) với Người.  Dù sống trong một thế giới đầy đau khổ và thập giá, Kitô hữu vẫn hy vọng và hoàn toàn xác tín Chúa Thánh Thần đang hoạt động mãnh liệt để chiến thắng Satan và đạt vinh quang cuối cùng trong cuộc biến hình hoàn toàn.[3]

Chính vì thế, đúng như thánh Phaolô nói (Rm 3:35), không gì có thể làm cho Kitô hữu tuyệt vọng.  Tuy không phải là tông đồ được lên núi với Chúa, nhưng được “một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ,” (Cv 22:6) Thánh nhân đã biến hình hoàn toàn.  Một cuộc lột xác tận bên trong và toàn thể cuộc sống !  Từ đó, mặc dù phải ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, ông vẫn luôn rao giảng Tin Mừng.  Ngay cả lúc ngồi tù, ông vẫn hô hào mọi người : “Vui lên anh em !” (Pl 4:4)  Lúc trước, suốt ngày mặt ông đằng đằng sát khí với các Kitô hữu.  Từ khi trở nên đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô, ông đã tìm thấy niềm vui và bình an thực sự.  Lý do vì ông đã biết lắng nghe và vâng lời Con Chí Ái của Chúa Cha.

Có nhiều môn đệ chưa đau khổ bằng thánh Phaolô, nhưng cuộc đời đầy ắp u buồn.  Nhìn lại quá khứ, tôi thấy những mảnh đời không đồng hình (đồng dạng) với Chúa Kitô.  Bởi đó, tôi không thể biến hình với Thày Chí Thánh.  Ánh sáng Hiển dung chưa chiếm trọn con tim, làm sao con mắt nhìn thấy Thiên Chúa đang hiện diện nơi từng anh em ?  Niềm tin non nớt chỉ sinh ra cay đắng.  Nếu có đức tin bằng hạt cải, tôi đã có thể nhìn thấy hồng ân trong tất cả.  Nếu tôi lên núi với Người,  cuộc đời đã tràn ngập niềm vui.  Vì ngại lên núi biến hình với Chúa, tôi đã không thể vận dụng mọi lẽ thuận nghịch trong cuộc sống và không vượt qua được đêm tối trần gian.

Ngày xưa, đứng trước thực tế đầy nguy hiểm và éo le, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ thân tín nhất lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình.  Chắc chắn khi được đám mây bao phủ, các ông đã cùng “biến hình” với Chúa.  Trước và sau cuộc biến hình này, Chúa đều kêu gọi các môn đệ hãy đồng hình.  Nếu không biến hình với Chúa, liệu các ông có đồng hình được không ?  Nhưng nếu không đồng hình (đồng dạng) với Chúa, các ông có thể biến hình trong ánh sáng Phục sinh không ?  Biến hình hay đồng hình, sự kiện nào xảy ra trước ? 

Thực tế, Chúa chỉ chọn ba tông đồ lên núi mà thôi.  Như thế chỉ có một phần tư trong số tông đồ đoàn được may mắn chiêm ngưỡng Chúa Hiển dung.  Ba phần tư còn lại cũng phải vác thập giá theo Thày và chia sẻ chén đắng suốt cuộc đời.  Tại sao những ông này không được vinh dự và hạnh phúc như ba vị kia ?  Họ sẽ lấy sức mạnh ở đâu để trung thành với Thày tới cùng ?  

Tin Mừng nói rõ Chúa hiển dung đang lúc cầu nguyện (x. Lc 9:29).  Trong cầu nguyện Chúa đã hiệp thông sâu xa với Chúa Cha.  Những biến đổi bên ngoài dung mạo và y phục diễn tả phần nào cuộc hiệp thông đó.  Chẳng lẽ các tông đồ không thay đổi gì sau bao lần chứng kiến và cùng cầu nguyện với Chúa ?   Chính trong lời cầu nguyện, các ông đã được biến hình sâu xa để có thể đồng hình (đồng dạng) với Chúa trong cuộc đời.  Bởi thế, Chúa mới dạy chúng ta phải cầu nguyện không ngừng (x.Lc 21:36).  Nhờ cầu nguyện, chúng ta biến hình giống như Chúa. 

Lạy Chúa, xin cho con lên núi với Chúa.  Giữa cuộc sống đầy tăm tối hôm nay, xin Chúa ban cho con ngày càng nên đồng hình với Con Chúa, để con có thể  biến hình trong vinh quang Phục sinh.  Amen.

đỗ lực 


[1] Tgm Bruno Forte, Zenit 01.03.2007.

[2] New Catholic Encyclopedia 2003:154.           [3] x. ibid.

 
VỀ MỤC LỤC
ĐẶC SỦNG CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP

 

LTS. GSVN hân hạnh giới thiệu một cuốn sách rất giá trị thực dụng cho hết mọi tu sĩ và giáo sĩ dòng, tuy nhiên vì tài liệu có tính chuyên sâu, và độc giả GSVN lại rất đa dạng, vì thế GSVN sẵn sàng gởi riêng qua email cho từng độc giả có nhu cầu (xin gởi email yêu cầu tại đĩa chỉ giaosivietnam@gmail.com ), ngoài ra Quí vị cũng có thể tham khảo trọn tài liệu tại www.conggiaovietnam.net .

Dưới đây là sơ lược vài nét của tài liệu. 

Tác giả:   Trần Hữu Hạnh, fsf

 

MỤC LỤC

Lời mở

I. ĐẤNG SÁNG LẬP

   1. Trước công đồng Vatican II

      a. Vài nét lịch sử

      b. Dựa trên khía cạnh thần học về Thần khí  

   2. Từ công đồng Vatican II         

   3. Đấng sáng lập là ai?                   

II. ĐẶC SỦNG CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP

   A. Đặc sủng nói chung

      1. Đặc sủng là gì?

      2. Đặc sủng và thừa tác vụ

      3. Tiêu chuẩn để nhận ra đặc sủng đích thực

          a) Đức ái

          b. Thần khí luôn làm chứng cho Chúa Kitô

          c) Sự phục vụ

   B. Đặc sủng của đấng sáng lập                                           

      1. Đặc Sủng của Đời Sống Thánh Hiến nói chung              

      2. Đặc Sủng của Đấng Sáng Lập                                      

          a. Giáo huấn của Giáo hội                                             

          b. Tính cách của đặc sủng                                           

          c. Thần học về đặc sủng của đấng sáng lập theo một số nhà thần học đương thời                        

      3. Đặc sủng lập dòng (thành lập)                                       

      4. Đặc sủng (đoàn sủng) của hội dòng                               

      5. Đặc sủng và Sứ mệnh (mission)                                 

      6. Thẩm quyền của Hội thánh                                        

      7. Làm thế nào để khám phá ra đặc sủng của Đấng Sáng Lập? 

 

LỜI MỞ

Đặc sủng là yếu tố chính tạo nên sự khác biệt giữa hội dòng này với hội dòng khác. Đặc sủng chính là sức sống, là nguồn mạch của mọi hoạt động tông đồ của mỗi hội dòng. Một hội dòng mà không sống theo đặc sủng của đấng sáng lập sẽ đánh mất đi căn tính của nó, và như một hệ qủa, mất đi phương hướng của nó. Chìa khóa cho sự phát triển của mỗi hội dòng là trung thành với đặc sủng của đấng sáng lập. Bởi  đó, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã kêu gọi các cộng đoàn tu trì phải trung thành với tinh thần, với những ý hướng Phúc âm và gương thánh thiện của đấng sáng lập. Chính ở đây mà các hội dòng tìm thấy nguồn gốc của họ (x. ET 11-12.

Người tu sĩ cần phải biết được căn tính ơn gọi của mình trong Giáo hội. Họ phải giữ gìn, đào sâu và sống với sự trung thành và lòng biết ơn đối với đặc sủng mà đấng sáng lập của họ đã nhận được và truyền lại cho họ. Muốn có đổi mới, chúng ta cần biết chúng ta là ai. Mỗi hội dòng phải ra sức giữ lấy căn tính của mình để khỏi rơi vào tình trạng mập mờ, không xác định được vị trí và nhiệm vụ của mình trong đời sống Giáo hội.

xin tham khảo trọn vẹn tài liệu tại www.conggiaovietnam.net

VỀ MỤC LỤC
RỬA CHÂN

Đồng Hành Với Chúa- Nguyên Tác IN STEP WITH GOD,  LM Vincent Travers, OP

HƯƠNG VĨNH chuyển ngữ

(Ga 13, 1-17) 

*** 

Nếu ai có dịp hành hương Thánh Địa và thăm viếng căn phòng Tiệc Ly, có thể sẽ rất ngạc nhiên, ngay cả sửng sốt nữa, khi thấy căn phòng đó đơn giản làm sao!

Không có gì ở trong căn phòng đó gợi lên chút xíu về điều đã xảy ra ở giữa bốn bức tường khép kín vào tối Thứ Năm Tuần Thánh đầu tiên đó. Không có gì cho thấy điều đã xảy ra hôm đó có thể tồn tại mãi mãi về sau và khiến cho thế giới xưa kia không còn bao giờ như thế nữa. Tôi không tin bất cứ căn phòng nào – vì ý nghĩa lịch sử của nó – đã có thể tầm thường và đơn giản như thế.

Tuy nhiên tính chất rất tầm thường và đơn giản đó đã làm vang vọng điều mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm vào tối hôm đó và sẽ không bao giờ bị lãng quên được.

Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài qui tụ ở đó để mầng lễ Vượt Qua hằng năm. Đó cũng là bữa cơm tối cuối cùng của họ khi tất cả mọi người họp mặt đông đủ. Quang cảnh rõ thật là một tấn đại bi kịch.

Không ngạc nhiên chút nào, Chúa Giêsu đã mở miệng ra và nói từ con tim của Ngài về những điều mà Ngài ấp ủ trong lòng: thật đúng là một bài diễn văn giã biệt! Ngài nói về tình yêu và những hoài vọng của Ngài đối với họ, về những ưu tư của Ngài là họ sẽ bị tan rã khi Ngài ra đi. Chúa Giêsu tiếp tục nói lâu dài, nói từ trong con tim của mình.

 Giữa khi Ngài bộc lộ tâm tình như thế thì một sự cãi vã nho nhỏ xảy ra giữa họ, cơ hồ làm hỏng hết ý nghĩa của buổi họp mặt hôm đó. Họ muốn biết ai trong đám họ là người lớn nhất. Đó là một cuộc tranh chấp quyền bính. Họ tranh giành địa vị. Họ muốn biết ai là người ở trên chóp bu.

Thật là một điều không thích hợp và không thích đáng chút nào. Chẳng khác nào Chúa Giêsu không có mặt ở đó. Chẳng khác nào Ngài đã bị mất họ hết rồi. Họ ở trong một căn phòng với Chúa Giêsu nhưng họ đã xa cách nhau vạn dặm. Họ không cố nghe Chúa Giêsu nói. Họ đã ở trên sàn nhà đó nhiều lần trước kia rồi nhưng vẫn còn một vấn đề nghiêm trọng xảy ra.

Họ đang cãi nhau ầm ĩ vào giờ nầy đây và khiến Chúa Giêsu bị rơi vào tình trạng sửng sốt bàng hoàng. Tôi không biết Chúa Giêsu có chớp mắt, ngước nhìn lên trời và lắc đầu lia lịa hay không? Hoặc Ngài cảm thấy dở khóc dở cười khi phải chứng kiến cảnh tượng lố bịch đó không? Ngài đang đối diện với tử thần và các môn đệ của Ngài đang đấm đá nhau như trẻ con vậy.

Những điều chúng ta phỏng đoán trên đây không thành vấn đề nhưng điều hệ trọng là việc Chúa Giêsu đã làm để kéo lôi họ ra khỏi chính con người của họ hầu trở lại với đường đi nước bước của Ngài. Họ cần một quả đấm ngàn cân, một sự chữa trị bằng một cú điện giựt thật mạnh để đem họ trở về lại trên mặt đất.

Vì vậy Ngài đã lấy một bình nước, rót đầy nước vào chậu, quấn một chiếc khăn ngang hông và yêu cầu tất cả họ ngồi xuống. Giờ đây Ngài đã làm cho họ phải chú ý. Khi đến lượt Ngài bắt đầu rửa chân cho họ, họ đã kinh hoàng rúng động cùng tột. Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy của họ, là vị cứu tinh, người lãnh đạo và là tất cả của họ nhưng nầy đây Ngài đã tự hạ mình xuống làm người thấp hèn nhất, bằng cách làm một công việc thuộc về hạng tôi đòi hèn hạ nhất.

Khi Ngài đến với Phê-rô, ông đã phản đối vì thấy rõ những điều ẩn ý bên trong. Có lẽ Phê-rô là người khôn lanh nhất trong nhóm họ. Ông là một người lãnh đạo, là cánh tay mặt của Chúa. Ông đã là người lãnh đạo của nhóm lâu rồi trước khi Chúa Giêsu xuất hiện. Chúa đã nhận ra những đức tính lãnh đạo của Phê-rô nên đã chỉ định ông làm người kế vị Ngài.

Nhưng điều mà Chúa Giêsu đang làm không nằm trong ý hướng lãnh đạo của ông. Ông đã bàng hoàng. Đó là điều bất xứng. Đó là điều làm hạ phẩm giá của Ngài. Phê-rô đã hiểu điều mà một người lãnh đạo phải làm. Ông đã khơi mào và làm chủ tình thế. Chúa Giêsu đang bỏ rơi quyền lực. Phê-rô đã mất tự chủ và không biết thế nào là phục vụ, nhưng Chúa Giêsu cố thuyêt phục ông.

Chúa đã làm đảo lộn toàn bộ hệ thống giá trị và tốt hơn hết là Phê-rô nên tin tưởng điều đó. Chúa Giêsu thẳng thắn nói với Phê-rô là trừ khi ông để Ngài rửa chân ông – tức là ông phải quan niệm lại vấn đề lãnh đạo – nếu không ông sẽ không thể nào thông phần với Ngài. Đến lúc đó Phêrô bị ngã gục. Phêrô đành đầu hàng, thua cuộc.

Cuối cùng khi Chúa Giêsu đã rửa chân xong, Ngài đứng thẳng dậy và hỏi: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 12-15)

Đó là điều chấm dứt ở đoạn Phúc Âm Thứ Năm Tuần Thánh. Tại sao điều chấm dứt đó đã làm tôi bàng hoàng, bởi vì câu kế tiếp đã cắt nghĩa toàn bộ ý thức hệ lãnh đạo của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13, 16-17)

Điều xảy ra trong tối Thứ Năm đó đã tóm gọn toàn bộ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ngài đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Ở trong Nước Trời, phục vụ là cai trị.

Các môn đệ thực ra lúc bấy giờ đã không thấu hiểu ý nghĩa của việc rửa chân. Cần phải có thời gian để sứ điệp và gương lành của Chúa Giêsu ngấm xuống. Cuối cùng họ sẽ nhận thấy rằng họ được kêu gọi để sống, không phải cho chính họ mà cho kẻ khác. Sau hết khi họ hiểu được sứ điệp và gương lành của Chúa Giêsu lúc bấy giờ họ mới quấn khăn ngang hông, đổ đầy những chậu nước và rửa chân người khác nhằm mục đích phục vụ Tin Mừng, ở trong tiến trình thay đổi thế giới.

Giờ đây đến lượt chúng ta phải bắt tay vào việc và đóng góp vào câu chuyện được kể lại trong Phúc Âm. Có thể chúng ta chưa nắm bắt được ý nghĩa của việc rửa chân nhưng hy vọng chúng ta sẽ tham gia mỗi lúc một chút.

Cách chắc chắn nhất, chúng ta nên phác họa lại bức tranh đó bằng cách bắt đầu sử dụng bất cứ nền tảng quyền lực nào mà chúng ta có, bất cứ địa vị được tín nhiệm nào mà chúng ta nắm giữ, bất cứ năng khiếu nào mà chúng ta được thiên phú và chúng ta sẽ tổng hợp các thứ đó lại để phục vụ kẻ khác. Rồi thì chúng ta bắt đầu rửa chân một cách can đảm và duyên dáng theo cung cách của Chúa Giêsu.

Đừng hiểu lầm, sứ mệnh rửa chân không bao giờ dễ dàng cả. Hãy hỏi Chúa Giêsu đi. Hãy hỏi Phêrô đi. Hãy hỏi bất cứ ai đã cố gắng sống nhãn quan đó đi.

Nếu chúng ta khôn khéo như Phê-rô, chúng ta sẽ hiểu rõ những điều quan hệ và những điểm nối kết từ đó mà ra. Đặt để nhu cầu người khác trước tiên không bao giờ dễ dàng cả. Điều đó đi ngược lại bản năng tự nhiên của chúng ta.

Bản năng tự nhiên chúng ta nhắc nhở chúng ta rằng: “Chính tôi, chính tôi mà thôi, luôn luôn là tôi và không ai khác hết.” Nhãn quan đối với đời sống rửa chân đã khiến cho quan niệm về cuộc sống đảo lộn khi nhắc nhở chúng ta điều ngược lại: “Không, không phải tôi mà là chính bạn, chỉ bạn thôi, luôn luôn là bạn và không ai hết.

Cách thức mà quí bạn rửa chân và cách thức mà tôi rửa chân có thể khác nhau và thay đổi tùy theo hoàn cảnh cuộc sống. Mỗi người trong chúng ta phải hành động thế nào để chúng ta rửa chân theo cung cách phù hợp với những năng khiếu tự nhiên và ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.  

Sau cùng, vấn đề không phải là dễ dàng hay khó khăn, mà là có đáng để chúng ta quàng khăn ngang hông, đổ đầy những chậu nước và rửa chân không? Câu trả lời cũng tương tự như câu trả lời cho hết mọi vấn đề quan trọng khác, tất cả đều phải đến từ bên trong chúng ta mà thôi.
 

VỀ MỤC LỤC

TỪ ÐỈNH NON CAO

 

(Lc 9: 28b-36)

Ðêm về phủ kín trần gian,

bao nhiêu kinh dị lang thang đường tình,

không gian khép nép cúi nhìn,

Thày đang tiên báo trăm nghìn đắng cay,

đau thương chết chóc từng ngày,

đón chờ thân phận tương lai nhạt nhòa.

 

Tối tăm từng mảng vỡ òa,

khi Thày sóng bước bên ba môn đồ.

xa miền tăm tối âm u,

lên cao mới thấy ngục tù trần gian.

một nguồn ánh sáng chói chang,

dung nhan y phục hương ngàn trùng khơi,

say sưa cảnh sắc tuyệt vời,

Thày cùng hai vị nhà trời hàn huyên ,

Nước Trời trĩu nặng một bên

xuất hành trực chỉ Gia Liêm mai ngày.

 

Từ cơn giấc điệp nồng say,

Phêrô bừng tỉnh hiến Thày một chiêu,

“Xin cho con dựng ba lều,

Thày cùng nhị vị thiên triều dừng chân.”

lều chưa thấy, đã thấy thân

phiêu bồng giữa cảnh triều thần Nhà Cha,

trong cơn hốt hoảng chói lòa,

nghe Cha tuyên phán : « Ðây là Con yêu ! 

Lời Người con hãy vâng theo.”

cuộc đời dù có chuông treo sợi mành,

con luôn vững bước hiên ngang,

càn khôn ngàn khúc ca vang nhiệm mầu,

từ bình minh tới đêm thâu,

tang thương đồng dạng, khổ đau đồng hình,

sá chi thế thái nhân tình,

nguồn ân hồng lực Thánh Linh hộ phù.

một đời theo Ðức Kitô,

trăm năm hy vọng tới giờ Phục sinh !

nương theo Lời Chúa biến hình,

muôn năm vui sống ân tình Thiên Sai.

 

Giang sơn trĩu nặng hai vai …

vân thanh

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ VIỆC THƯỞNG PHẠT

bài 3

Hai đứa học sinh trung học nói chuyện với nhau trong giờ giải lao của buổi hòa nhạc. Một đứa nói: “Con Kim Chi trình diễn thật là tuyệt vời”. Đứa kia đáp lại: “Nó không đi đâu cả. Mầy có biết gì không? Mẹ nó trả cho nó một đô la cho mỗi giờ tập dượt”. “Mầy nói đùa hả?” “Không, tao không nói đùa. Kim Chi nói: nó thực tập mỗi ngày 8 tiếng suốt mùa hè là để lấy tất cả số tiền đó. Đó là lý do tại sao nó chịu khó tập. Không lạ gì nó không đi đâu cả. Nó không chơi vì vui thích. Khi tao tập dượt, tao tập dượt một cách mê man, bạn bè phải réo gọi tao ngưng để chúng nó có thể nghỉ ngơi”. “À, tao biết mầy muốn nói gì. Tao cũng vậy thôi”.

Trên đây là một ví dụ cho thấy con trẻ rất nhạy cảm về vấn đề tưởng thưởng. Chúng ta thử xem thêm một câu chuyện khác:

Tuyết rơi nhiều. Ông bố bảo Vĩnh 10 tuổi và Lộc 8 tuổi xúc tuyết làm sạch những lối đi. Vĩnh đòi hỏi: “Bố cho chúng con cái gì?” Ông bố do dự: “Con cảm thấy muốn cái gì?” “5 đô la cho 2 đứa” Vĩng mặc cả. Ông bố nói: “Giá đó thì phải làm luôn cả lối ra chỗ đậu xe”. Vĩnh đáp: “Vâng, hết cả”. Ông bố đồng ý: “Được rồi, con làm đi bố cho con”. Hai đứa bé la lên một các sung sướng và lao mình chạy ra làm.

Tại sao phải trả công cho con cái khi chúng phải làm việc bổn phận trong nhà? Chúng sống với bố mẹ, ăn uống, quần áo, học hành, và chia xẻ mọi bỗng lộc với bố mẹ trong gia đình. Nếu chúng được vui hưởng mọi quyền lợi, chúng bắt buộc cũng phải chia xẻ những bổn phận với bố mẹ.

Qua chế độ khen thưởng, bố mẹ sẽ làm cho 2 cậu bé Vĩnh và Lộc lầm tưởng rằng chúng không bắt buộc phải làm bất cứ một bổn phận nào ngoại trừ bố mẹ phải có một cái gì cho chúng nó. Như thế, chúng không thể phát triển được cảm giác trách nhiệm tùy theo sự cần thiết của hoàn cảnh đòi hỏi. Chúng ta nên dạy con trẻ biết chia xẻ mọi bộ mặt của cuộc sống gia đình. Chúng cũng nên biết chia xẻ với bố mẹ về đời sống kinh tế khó khăn của gia đình ngay cả trong hình thức được phép chi tiêu cho những điều cần thiết. Không có sự đòi hỏi giữa công việc phải làm và số tiền được ban thưởng. Con cái có bổn phận phải giúp bố mẹ làm những công việc trong nhà để đóng góp vào lợi ích gia đình.

Bà mẹ bỏ 2 đứa con gái nhỏ trong chiếc xe đậu ở bãi đậu xe để đi vào siêu thị mua ít thức ăn. Bà vừa ra khỏi xe thì chúng bắt đầu khóc. “Con đừng khóc, má sẽ mua đồ chơi cho các con”. “Loại nào?” “Má chưa biết nhưng là có đồ chơi cho các con”. Bà mẹ trả lời ngắn gọn và vội vã ra đi.

Bà mẹ cố gắng thu phục được sự cộng tác của con trẻ bằng cách đề nghị cho một đồ chơi. Nhưng trẻ con không cần phải hối lộ để trở nên tốt. Tự bản tính, mọi đứa trẻ đều muốn nên tốt. Hành vi hướng thiện của con trẻ phát xuất từ bản tính ước muốn thuộc về, muốn đóng góp một cái gì hữu ích, và cả ước muốn cộng tác với cộng đoàn của mình nữa. Khi chúng ta thưởng một đứa trẻ cho hành vi tốt của nó, chúng ta cho nó thấy rằng chúng ta không tin tưởng nó. Nhiều đứa trẻ đã thất vọng khi thấy chúng ta xử dụng những phương cách sai lầm như vậy.

Phần thưởng không mang lại cho đứa trẻ “cảm giác thuộc về”. Đó có thể là dấu hiệu của sự chấp nhận và mãn nguyện của bố mẹ trong lúc đó, nhưng cái gì sẽ xảy ra cho lúc sau đó? Có phải chúng ta cứ phải tưởng thưởng liên tục để con trẻ chúng ta mới chịu cộng tác nghe lời bố mẹ không? Nếu biết quan tâm đến những lúc khác, có lẽ chúng ta sẽ không cần phải dùng đến phần thưởng nữa. Cho dầu chúng ta chỉ muốn giữ lại một phần thưởng đặc biệt nào đó, chúng ta cũng hãy coi chừng  vì chính phần thưởng sẽ khiến đứa trẻ sẽ nghĩ rằng những cố gắng thường ngày của nó chỉ là vô ích bỡi nó sẽ không đạt được gì. Bấy giờ bố mẹ sẽ phải đối diện với một vấn đề nghiêm trọng khác như trong trường hợp đứa trẻ từ chối cộng tác mà không có câu trả lời. Chính vì thế, chúng ta phải dùng phương pháp giáo dục khác để giáo dục con trẻ chúng ta. Tại sao chúng ta không cắt nghĩa cho chúng nhìn thấy bổn phận phải làm những công việc đòi hỏi cần phải làm cho dẫu không có gì đáp trả? Nếu không, thái độ của chủ nghĩa vật chất sẽ theo đà đó phát triển, và như vậy con trẻ chúng ta sẽ không còn có cơ hội để tự thõa mãn với cái khát vọng muốn hoàn thành một cái gì tốt đẹp trong chúng ta. Bấy giờ, một giá trị hoàn toàn sai lầm cũng sẽ được thiết lập trong đứa trẻ và nó sẽ cho rằng thế giới nầy mắc nợ nó đủ mọi thứ. Như thế, cảm giác của đứa trẻ 16 tuổi giữ luật đi đường để bảo toàn mạng sống sẽ không có chỗ trong nấc thang giá trị của nó. Bấy giờ nó sẽ hành động như thế nào? Tuân giữ luật giao thông lúc đi đường là điều cần phải làm cho sự an toàn của tính mạng hay để được nhận phần thưởng? Và nếu không có phần thưởng nó sẽ không cộng tác. Và đây chính là kết quả cuối cùng của phương cách giáo dục với việc thưởng phạt. “Họ không thưởng tôi, tôi sẽ không làm. Nếu họ phạt tôi, tôi sẽ phạt lại họ. Tôi sẽ tỏ cho họ thấy điều đó”.

Thật ra, sự thõa mãn sâu xa đến từ cảm giác tham dự, cộng tác, và đóng góp một cái gì cho cộng đoàn, nhưng cảm giác nầy đã bị thiếu mất đi đối với con trẻ chúng ta trong một chế độ quá chú trọng đến việc ban phát những phần thưởng vật chất. Chính vì thế, chúng ta cần nên nhớ rằng mỗi khi chúng ta cố gắng khích lệ con trẻ chúng ta cộng tác bằng cách cho phần thưởng là chúng ta đã vô tình làm cho con cái chúng ta mất đi sự thõa mãn căn bản sâu xa về tinh thần cũng như về cuộc sống.l

lm.lêvănquảng

VỀ MỤC LỤC

CÓ NÊN DẠY GIÁO LÝ HAY CỬ HÀNH THÁNH LỄ

CHO GIỚI TRẺ Việt Nam TẠI HOA KỲ BẰNG TIẾNG ANH KHÔNG?

Trên đường trở về sau ba ngày tĩnh tâm với các em Hướng Đạo Sinh thuộc liên đoàn La Vang và Lạc Việt, lòng tôi vừa lâng lâng vui sướng vì bao ơn lành Chúa ban cho các em và chúng tôi trong ba ngày ấy, vừa thổn thức và lo âu vì những điều mà các huynh trưởng cùng các phụ huynh chia sẻ với tôi. Tiếng hát của các em còn vang lên bên tai tôi bài hát thật dễ thương mà Frère Phong dạy các em: “Pump the Jesus’ Spirit, pump it up…” hoà lẫn với các ưu tư của các phụ huynh và cũng là của chính tôi là làm sao để các em tiếp tục sống đức tin trong môi trường xã hội đồi trụy đầy gương mù này.

Một Thảm Trạng

Một vài phụ huynh đã than phiền là con cái lớn của họ sau khi lên đại học đã bỏ đạo Công Giáo mà theo Tin Lành, vì khi còn nhỏ các em chẳng hiểu gì khi học Giáo Lý và nghe giảng trong Thánh Lễ bằng tiếng Việt Nam, đến khi lên đại học, các em theo các bạn bè Tin Lành đến các lớp Thánh Kinh bằng tiếng Anh, và các em hiểu những điều họ dạy, rồi bỏ đạo mà đi theo họ. Tình trạng này đã xảy ra cho nhiều gia đình. Các phụ huynh cho biết là họ rất biết ơn vì những cố gắng của chúng tôi trong việc dạy Giáo Lý bằng Anh ngữ cũng như tổ chức những buổi tĩnh tâm bằng song ngữ cho con em họ. Họ đề nghị tôi nên nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt vì dù dùng song ngữ, các em cũng chưa hiểu hoàn toàn.  Đồng thời họ cũng nhờ tôi xin Cha Xứ tổ chức những Thánh Lễ cho giới trẻ bằng Anh ngữ mỗi tuần một lần để giúp các em hiểu và sống đạo cách thực tế hơn.

Một số hướng đạo sinh lớn và nhiều huynh trưởng đề nghị với tôi rằng các em muốn có thêm nhiều buổi tĩnh tâm nhỏ ba bốn lần một năm, vì các em thầy gần Chúa hơn và thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn khi dự các buổi tĩnh tâm như thế.  Một huynh trưởng khác chia sẻ là khi em còn ở trung học, em rất ghét dự Thánh Lễ vì không hiểu gì cả.  Nhưng khi lớn lên em đi nhà thờ Mỹ và hiểu nhiều hơn, vì thế em rất thích dự lễ.  Mỗi tuần em dự lễ ở nhà thờ Mỹ, rồi đến nhà thờ Việt Nam để phục vụ giới trẻ Việt Nam vì em thấy không mấy ai “care” cho chúng. Em đã cố gắng hết sức học tiếng Việt, nhưng nói thì được, chứ vẫn chưa đọc và viết thành thạo. Nghe giảng bằng Tiếng Anh thì em hiểu ngay, còn nghe giảng bằng tiếng Việt thì em phải dịch ra tiếng Anh rồi mới hiểu được, mà chưa kịp dịch câu trước thì đã mất câu sau, vì cha giảng quá nhanh….

Đâu là ưu tiên hàng đầu của chúng ta?

Vấn đề dạy Giáo Lý bằng tiếng Anh hay tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam tại Hoa Kỳ đã được bàn cãi không ngừng trong gần ba mươi lăm năm qua. Khi mới sang Mỹ, tôi là người rất cực đoan, muốn bảo vệ văn Hoá Việt Nam bằng bất cứ giá nào. Tôi vẫn mơ ước là chúng ta có thể dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt Nam để con em chúng ta vừa biết tiếng Việt vừa sống đạo như chúng ta đã từng sống. Như thế thì được cả hai. Nhưng sau nhiều năm phục vụ giới trẻ và chương trình Giáo Lý tôi mới thấy rằng việc dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt không đơn giản như tôi tưởng vì những lý do sau đây.

1.      Không phải tất cả các trẻ em Việt Nam đều đủ trình độ tiếng Việt để hiểu biết về Giáo Lý. Có những gia đình chịu khó dạy con nói tiếng Việt ở nhà thì các em nói được, hiểu được. Nếu cố gắng dạy thêm nữa thì các em đọc được, nhưng không hiểu hoàn toàn. Còn viết được để làm bài và ghi lại bài giảng bằng tiếng Việt thì gần như là chuyện “con lạc đà chui qua lỗ kim.”  Nhưng tiếc thay phần lớn phụ huynh chẳng quan tâm mấy đến tiếng Việt ở trong gia đình, nên hầu hết các trẻ em Việt Nam chẳng những không đọc và viết được tiếng Việt, mà nói cũng không được.

2.      Có nhiều giáo xứ, công đoàn Việt Nam mở lớp dạy Tiếng Việt cho các em.  Đây là một điều đáng mừng. Nhưng học một tuần lễ chỉ có một hai giờ mà không thực hành ở nhà thì cũng chỉ biết qua loa mà thôi. Người Mễ, sở dĩ bảo tồn được ngôn ngữ của họ vì các em học tiếng Tây Ban Nha hằng ngày tại trường học, đồng thời họ sống chung với nhau trong những khu xóm thuần chủng, còn người Việt thì sống rải rác khắp nơi, trừ một số khu vực như ở New Orleans.

3.      Một khó khăn nữa là tìm được các giáo lý viên có đủ khả năng dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt đâu phải là dễ.  Phần lớn người trẻ vừa tốt nghiệp đại học, có đủ khả năng dạy Giáo Lý đều yếu kém về tiếng Việt. Trong nhiều buổi huấn luyện, chính các trưởng ban Giáo Lý đề nghi tôi giảng bằng tiếng Anh cho các thày cô dễ hấp thụ hơn. Trong hầu hết các giáo xứ, mỗi năm các trưởng ban Giáo Lý phải vất vả lắm mới tuyển đủ giáo lý viên, nếu chỉ tuyển thày cô có khả năng dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt thì tôi e rằng sẽ không tìm đâu ra một phần ba số thày cô đang phục vụ trong các Giáo Xứ.

4.      Một điều thật quan trọng là nếu chúng ta chỉ cho những người rành tiếng Việt dạy Giáo Lý, thì chúng ta loại ra rất nhiều những người trẻ đầy thiện chí và đạo đức chỉ vì các em không biết tiếng Việt. Khoảng mười năm trước đây khi bắt đầu phục vụ chương trình Giáo Lý tại Cộng Đoàn Notre Dame, có một số người trẻ vừa tốt nghiệp đại học đến gặp chúng tôi và tình nguyện dạy Giáo Lý.  Có một cô bé thật dễ thương đã nói với chúng tôi rằng “Con muốn dạy Giáo Lý, nhưng con không biết tiếng Việt, cũng không biết Giáo Lý thì con có dạy được không?”  Mấy anh chị em chúng tôi đã mở cửa ban Giáo Lý để đón em và bạn bè em. Chúng tôi đã mở những lớp huấn luyện cấp tốc, gửi các em lên học trên Giáo Phận và tổ chức các lớp huấn luyện và thực tập hàng tuần.  Không đầy năm năm sau, một số em đã thành những Giáo Lý Viên chuyên dạy các lớp Thêm Sức và Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu, và khi tôi rời Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể về phục vụ Giáo Xứ La Vang thì một trong các em này đã thành trưởng ban Giáo Lý tại Giáo Xứ Ngôi Lời. Nếu những ngày ấy Cha Quản Nhiệm đóng cửa không cho các em phục vụ thì làm sao có một ban Giáo Lý hùng hậu và một nhóm trẻ hăng say phục vụ Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể như ngày hôm nay?

Các Linh Mục hay những ai không phục vụ các cộng đoàn hay Giáo Xứ Việt Nam thì không tài nào hiểu nổi những khó khăn về mục vụ mà các Cha gặp phải tại các Giáo Xứ và cộng đoàn Việt Nam, mà khó khăn đầu tiên phải nói là giữa thế hệ trẻ và thế hệ già, nhất là vấn đề ngôn ngữ bất đống.  Ngồi đó mà chỉ trích thì dễ lắm, nhưng khi va chạm đến thực tế mới thấy thật nan giải.  Khi phải chọn lựa giữa việc bảo tồn văn hóa Việt Nam và bảo vệ Linh Hồn giới trẻ, thì các linh mục có lương tâm sẽ chọn Linh Hồn các em trước văn hóa vì “làm lễ hay dạy Giáo Lý bằng tiếng Việt có ích gì, nếu vì thế mà các em sau này bỏ đạo theo Tin Lành hay theo Vô Thần?”.  Khi thấy vì nhu cầu của linh hồn các em, phải dạy Giáo Lý bằng tiếng Mỹ, thì một Cha Sở dù bảo thủ đến đâu cũng phải cho dạy bằng tiếng Mỹ.  Khi vì nhu cầu linh hồn của giới trẻ cần có Thánh Lễ bằng tiếng Anh thì một vị chủ chăn nhân lành sẽ tìm cách cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh hay cố gắng giảng bằng tiếng Anh hoặc nhờ một linh mục Việt Nam thông thạo Anh Văn về cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh cho các em. Làm thế không có nghĩa là “vọng ngoại” hay “vong bản” mà là thực thi Giới Luật thứ nhất là “không đưa tiếng Việt lên trên Thiên Chúa.”

Mục đích chính của việc dạy Giáo Lý không phải chỉ truyền thụ một mớ bài học thuộc lòng hay một mớ kiến thức suông, mà là uốn nắn học sinh theo khuôn mẫu Đức Kitô, là làm cho các em thành những Kitô hữu trưởng thành, là đào tạo các em thành các môn đệ của Chúa. Muốn được như thế phải dạy các em bằng ngôn ngữ mà các em hiểu. Nếu các em không hiểu, làm sao các em có thể áp dụng những gì các em học vào đời sống được?

Xin được trả lời một số thắc mắc sau đây

1.      Có người lý luận là “tiếng Anh của các em chỉ là tiếng Anh ở nhà trường, chứ không phải ở nhà thờ ngôn ngữ nơi ngôn ngữ phụng vụ và kinh thánh đều xa lạ với các em dù là tiếng Anh hay tiếng Việt. Cụ thể là …các ngôn từ như “prophet (sứ ngôn), Old and New Testaments (Cựu Ước và Tân Ước)…”

Xin thưa, học Giáo Lý không phải chỉ để biết một số danh từ thần học bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, mà để áp dụng vào hoàn cảnh sống của mình. Muốn áp dụng bài học Giáo Lý vào đời sống hằng ngày, các em phải hiểu cách tường tận. Mà muốn hiểu cách tường tận thì các em phải học bằng ngôn ngữ mà các em dùng hằng ngày và thành thạo chứ không phải chỉ biết trọ trẹ.  Sách “Cẩm Nang Giáo Lý Quốc Gia (National Directory for Catechesis) trang 87 nhấn mạnh rằng:  trong việc dạy Giáo lý  “phải dùng ngôn ngữ thích hợp với trẻ em, giới trẻ, và người trường thành ngày nay nói chung, cũng như nhiều loại người khác: thí dụ, học sinh, sinh viên, các nhà trí thức và khoa học, những người mù chữ và những người tàn tật.”  Như vậy các học sinh Việt Nam tại các Giáo Xứ có thể được coi là “mù chữ Việt”, nhưng tạ ơn Chúa là các em còn biết tiếng Anh để chúng ta dạy dỗ. Những gì các em học được, các em phải đưa ra thực hành ở ngoài xã hội. Chính vì học Giáo Lý bằng tiếng Việt mà không hiểu gì cả nên một số sinh viên khi lên đại học chỉ cần bạn bè Tin Lành bắt bẻ vài câu là bỏ đạo theo họ.

2.      Nếu cha mẹ ngại con em không hiểu tiếng Việt thì sao không cho các em đi lễ và học Giáo Lý ở nhà thờ Mỹ?

Sở dĩ chúng tôi không đưa con em đi nhà thờ Mỹ hay học Giáo Lý ở nhà thờ Mỹ, vì chúng tôi muốn con em chúng tôi có một tâm hồn Việt Nam.  Mặc dù chúng tôi dạy Giáo Lý bằng tiếng Mỹ, nhưng chúng tôi dùng những câu chuyện thật Việt Nam để giữ gìn tinh thần Việt Nam của các em.  Một khi duy trì được tinh thần Việt Nam trong lòng các em. Các em sẽ học tiếng Việt khi thấy có nhu cầu. Tôi đã gặp những người trẻ Việt Nam sau một thời gian phục vụ cộng đoàn Việt Nam đã cố gắng tự học tiếng Việt để có thể tiếp xúc với những người Việt không thạo tiếng Anh. Nhờ đi học Giáo Lý, tham gia các hội đoàn, và tham dự Thánh Lễ ở nhà thờ Việt Nam mà các em sau này biết trở về phục vụ đồng bào Việt Nam sau khi đã thành nhân. Có biết bao người trẻ Việt Nam dù không rành tiếng Việt đã âm thầm phục vụ trong các Giáo Xứ Việt Nam một cách vô vị lợi. Nếu cha mẹ đưa các em đến nhà thờ Mỹ và học Giáo Lý của Mỹ thì các cộng đoàn Việt Nam đã mất đi một số tông đồ nhiệt thành như thế.

3.      Có thật “học Giáo Lý bằng tiếng Việt và dự lễ bằng tiếng Việt” các em sẽ không “mất gốc” không?

Thưa nếu các em học mà hiểu, dự Thánh Lễ mà hiểu, và nghe các Cha giảng tiếng Việt mà hiểu thì các em sẽ không mất gốc. Nhưng nếu các em không hiểu gì cả thì một ngày nào đó khi thoát ly ra khỏi gia đình, các em sẽ mất cả gốc lẫn cả đạo vì suốt thời gian đáng lý ra phải được đào luyện Đức Tin thì các em đã không hiểu gì về Đức Tin cả.

Bảo Tồn Văn Hóa và Đức Tin

Đối với tất cả người Việt chúng ta, bảo tồn văn hóa là điều rất quan trọng, nhưng không phải vì văn hoá mà hy sinh việc bảo tồn Đức Tin của con em chúng ta. Vì thế chúng ta cần phải phân biệt giữa việc bảo tồn văn hóa và và việc bảo tồn Đức Tin, và tìm cách nào để chúng ta vừa bảo tồn được văn hóa mà vừa làm cho Đức Tin của con em chúng ta được vững mạnh.. Dạy Giáo Lý và cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Anh không làm cho các em mất gốc, nếu chúng ta truyền thụ tinh thần Việt Nam cho các em. Dù nói không rành tiếng Việt, các em vẫn có giòng máu Việt, văn hóa Việt, và gia đình Việt. Nhiều người đồng hoá văn hoá với ngôn ngữ.  Mặc dù ngôn ngữ là một phần quan trọng của văn hoá, nhưng văn hóa rộng lớn hơn ngôn ngữ nhiều. Văn hoá trước hết bao gồm cách sống, các phong tục tập quán trong gia đình, trong cộng đồng, cách đối xử giữa ông bà, cha mẹ con cái, bạn bè….Dù không rành tiếng Việt, rất nhiều trẻ em sống rất Việt Nam. Các em không nói được tiếng Việt, chưa chắc đã trở thành “lai căng” như có người chỉ trích.  Nếu Giáo Xứ Việt Nam tạo ra các phương tiện để các em học hỏi, phục vụ và gắn bó lấy cộng đồng Giáo Xứ thì các em sẽ không bao giờ mất gốc cả.

May mắn thay cho người Việt Công Giáo chúng ta tại Hoa Kỳ, là ở hầu hết các Giáo Xứ và cộng đoàn Việt Nam đều có các lớp dạy Tiếng Việt và các đoàn thể trẻ. Để giúp các em quen với Tiếng Việt, xin đề nghị dạy các em hát càng nhiều bài tiếng Việt càng tốt. Trong Thánh Lễ, có thể giảng bằng Tiếng Anh hay song ngữ, nhưng nên hát và đọc kinh Tiếng Việt càng nhiều càng tốt. Cũng nên giải thích ý nghĩa của các bài hát và các kinh này trong các lớp Giáo Lý hay Việt Ngữ hoạc trong khi họp các đoàn thể trẻ để các em hiểu là các em hát và đọc gì. Làm như thế chúng ta vừa bảo tồn được văn hóa Việt Nam, vừa giúp các em hiểu và sống đạo.

Kết Luận

Là một Giáo Lý viên và một phụ huynh Việt Nam sống tại Hoa Kỳ, chúng tôi chia sẻ cùng một ưu tư với nhiều phụ huynh khác là sợ con em mình mất gốc. Nhưng nỗi lo sợ lớn lao hơn của chúng tôi là sợ con em mất Đức Tin. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa Nhân Từ đã ban cho nhiều Chủ Chăn Việt Nam tại Hoa Kỳ đức khôn ngoan và can đảm để đặt nhu cầu truyền thụ và huấn luyện Đức Tin của con em chúng tôi lên trên văn hóa, nên các ngài đã cho phép các Giáo Lý viên chúng tôi dùng Anh Ngữ để dạy Giáo Lý, mặc dù các ngài bị một số người, kể cả một vài Linh Mục gán cho những nhãn hiệu thật thiếu bác ái như “vọng ngoại, lai căng…”. Tuy nhiên các ngài cũng không quyên khuyến khích con em nói Tiếng Việt bằng cách đã bỏ nhiều tài nguyên và nhân lực của Giáo Xứ vào các chương trình Viễt Ngữ.

Xin Chúa trả công bôi hậu cho các Chủ Chăn nhân lành.  Amen.

GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi

VỀ MỤC LỤC
GIAI ĐOẠN HẬU CHỦNG VIỆN

ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI

TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HÔM NAY

Nguyên bản tiếng Anh   Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Bản dịch Việt ngữ  Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào

CHƯƠNG X

GIAI ĐOẠN HẬU CHỦNG VIỆN -

NĂM NĂM ĐẦU TIÊN TRONG SỨ VỤ LINH MỤC: NHỮNG MỐI TƯƠNG QUAN HÀI HOÀ, QUÂN BÌNH VÀ TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC.

Bằng việc giới thiệu ứng sinh lên chức linh mục, chủng viện đã hoàn tất giai đoạn đào tạo khởi đầu của mình, nhưng việc đào tạo linh mục không dừng lại ở đây. Việc đào tạo linh mục phải được tiếp tục, bằng việc đào tạo thường xuyên trong suốt cuộc đời của linh mục. Việc đào tạo chủng viện chỉ cho biết phải làm sao và sống thế nào. Nhưng bây giờ trong sứ vụ mục vụ, chính vị linh mục trẻ bắt đầu làm và sống đời linh mục và sứ vụ linh mục của mình. Càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục tốt hơn và đích thực là linh mục.

Theo Pastores Dabo Vobis, bản chất và sứ vụ linh mục không thể được xác định, nếu không có những tương quan bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi, được kéo dài trong sự hiệp thông của Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.396

Mục đích quan trọng nhất của việc đào tạo thiêng liêng thường xuyên trong suốt năm năm đầu tiên này là giúp vị tân linh mục chu toàn sứ vụ mình trong niềm vui và trung kiên hy vọng, ý thức, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu thiêng liêng, bằng việc thăng tiến các mối tương quan hài hòa, quân bình và trưởng thành với Chúa, với chính mình, với người khác và với thiên nhiên.

Những mối tương quan này đã được bắt đầu và nuôi dưỡng ngay từ tiến trình đào tạo khởi đầu ở trong chủng viện. Nếu ngày qua ngày, các tương quan này được điều chỉnh và phát triển tốt đẹp thì mọi sự sẽ “thuận buồm xuôi gió.” Nhìn thẳng vào những hoàn cảnh thực tế mà vị linh mục trẻ dấn thân vào như là đáp án thích hợp, người ta sẽ tin tưởng “canh tân và nuôi dưỡng chúng cách hữu hiệu hơn.”397 Vì lý do đó, Đức Gioan Phaolo II đã nói rằng việc đào tạo linh mục “đúng đắn và quân bình”398 là bảo đảm tốt nhất cho tương lai.             

A.  Đối Mặt Thực Tế và Những Nhu Cầu Căn Bản

    1. Những Thực Tế Không Mong Đợi 

Đức Tổng Giám Mục Orlando B. Quevedo (Philippines) nhận thấy rằng ngay sau khi thụ phong, các linh mục trẻ đã bỏ cầu nguyện, Sách Nhật Tụng, Nguyện Gẫm riêng, xét mình hàng ngày và lần chuỗi Mân côi. Ngài buồn rầu kết luận: “linh mục trẻ bỏ cầu nguyện và những sùng kính đạo đức là những cái đã giúp ngài giữ được ơn gọi sống động trong chủng viện, và cũng chính những thứ đó sẽ còn giúp ngài bền đỗ trong chức vụ linh mục.”399

Đâu là lý do khiến đời sống thiêng liêng của các linh mục trẻ sa sút và đưa đến hậu quả không đáng mong đợi như vậy? Một cách nào đó, điều này chứng tỏ họ còn yếu kém và không trưởng thành đủ trong một đời sống thiêng liêng sâu xa. Chúng ta không thể không biết đến tình cảnh này của con người và của Hội Thánh… và cũng không thể khám phá thấy hết được những hình thức khác nhau của cơn “khủng hoảng” mà các linh mục ngày nay đang phải chịu đựng: thiếu vâng lời và khó nghèo, lơ là việc linh hướng và xưng tội (luôn luôn sẵn đó nhưng họ không dùng), không ưu tiên cho đời sống cầu nguyện, thiếu tương quan thân mật với Giám mục và linh mục đoàn, thiếu liên đới và hợp tác làm việc chung, nhưng chỉ thích thi hành sứ vụ cách cá nhân, thiếu tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau, quá tự tin, kiêu căng, lười biếng, có vấn đề về đức trong sạch, thiếu trách nhiệm bản thân trong việc tự đào tạo và phát triển đời sống thiêng liêng.400

Ngoài ra, Bộ Giáo Sĩ cũng mô tả những yếu tố nản lòng này: “thói quen đơn điệu, căng thẳng thể xác vì quá nhiều việc, mệt mỏi tâm lý gây nên do đấu tranh chống lại hiểu lầm và định kiến.”401 Và Bộ đề nghị một giải pháp: “cần phải đưa ra vài lời khuyên cho một chương trình đào tạo thường xuyên thích hợp có thể giúp các linh mục sống ơn gọi của mình cách vui tươi và trách nhiệm.”402

      2. Những Nhu Cầu Cơ Bản Và Thường Xuyên Của Hội Thánh 

Đáp lại các vấn đề đó, các thẩm quyền Giáo Hội nhấn mạnh việc đào tạo thường xuyên. Thật vậy, Sứ Vụ và Đời Đống Linh Mục dành trọn chương III (các số từ 69-92) để nói về việc đào tạo thường xuyên này, như “một bổn phận và quyền lợi chính đáng của linh mục…. và của Hội Thánh”, phù hợp với “mục đích cơ bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng,”403 mà “không ai có thể thay thế được linh mục trong việc canh chừng chính mình” (x. 1 Tm 4, 16).404 

Trong khi đó Tông Huấn Pastores Dabo Vobis  cũng dành trọn chương VI (các số 70-82) để nói về việc đào tạo thường xuyên này của linh mục, như “sự tiếp tục tự nhiên và tuyệt đối cần thiết của tiến trình xây dựng nhân cách của linh mục, vốn đã được khởi sự và phát triển từ trong chủng viện.”405

Còn Optatam Totius khuyến cáo rằng “việc đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện đại, cần phải được tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã hoàn tất chương trình đào tạo trong chủng viện.”406

Ngoài ra, Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis (chương XVII, số 100-101) mô  tả việc đào tạo hậu chủng viện: “cách riêng trong những năm đầu tiên sau khi chịu chức …. để các linh mục mới ra trường có thể được trang bị tốt hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện các bổn phận của người tông đồ.407

Và Tông Huấn Ecclesia in Asia mở ra một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Đức Kitô, các Giám mục và linh mục cần một đào tạo chắc chắn và thường xuyên, có thể cung ứng những cơ hội khả thể cho một cuộc canh tân thiêng liêng và mục vu.”408

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực hiện lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề “đào tạo tiếp tục cho các linh mục Á Châu.”409

Cuốn Gathered Around Jesus quan niệm rằng đó là một cuộc khủng hoảng về đời sống thiêng liêng và đưa ra một phương dược chữa trị, với ơn Chúa:

      a. Ở Cấp Độ Cá Nhân

Kỷ luật tự giác và nỗ lực cá nhân, vào sâu trung tâm nhân cách con người, dành thời gian để xét mình, coi trọng đời sống cầu nguyện và dành giờ để chiêm ngắm, phân định rõ ràng căn tính của mình, ngay thẳng với chính mình, thành thật trong ơn gọi, giản dị trong cuộc sống, cầu nguyện và làm việc không ngừng.        

       b. Ở Cấp Độ Giáo Hội

Nhìn lại nơi chúng ta đã xuất phát, chọn những con người có tinh thần siêu nhiên làm ứng viên linh mục, tìm thứ linh đạo phù hợp với cá tính của mỗi người, linh đạo này nên thúc đẩy và mở ra với thế giới, tiếp tục đào tạo thiêng liêng và lớn lên nhờ một cuộc đào luyện thiêng liêng quân bình, các khía cạnh nhân bản và đào tạo thiêng liêng phải là một, thần học về đời sống độc thân, sự hiện diện của vai trò gương mẫu, linh đạo về hiệp thông, dấn thân vào cộng đoàn giáo xứ cầu nguyện, phân định cộng đoàn và chấp nhận, ý thức về hoàn cảnh và khả năng trực diện với chúng, hệ thống hổ trợ và tình huynh đệ bí tích, Giám mục phải thiết lập tương quan cá nhân với các linh mục của mình.410

     3. Trách Nhiệm và Đóng Góp của Chủng Viện

Chủng viện không muốn bị kêu trách là “đem con bỏ chợ.” Chủng viện nên đồng hành với những người mới ra trường ít nhất là trong năm năm đầu tiên làm linh mục, với tiến trình này: “Dạy cho người ta làm, giúp người ta làm, để cho người ta làm, cuối cùng rút lui, nhiệm vụ đã hoàn tất.” Nhưng các nhà đào tạo của chủng viện phải cộng tác với Giám Mục và linh mục đoàn của ngài trong việc đào tạo thường xuyên, nhằm định hướng lại lối sống của hàng giáo sĩ, với một quân bình thiêng liêng và tâm lý vững chắc.411

Mặc dù việc đào tạo thường xuyên là sự nối tiếp việc đào tạo trong chủng viện, nhưng nó không phải là lặp lại những kiến thức đã học, mà nó mang một nội dung mới và phương pháp mới, vì đây được coi là một tiến trình áp dụng và cập nhật hoá và thay đổi.412 Trong khía cạnh thực hành, việc thực tập này nhằm mục đích giúp linh mục trẻ biết thực hành và suy nghĩ về kinh nghiệm của mình như là thừa tác viên bí tích, giảng dạy, khuyên răn và thăm viếng; ôn lại giáo lý với cách thức đặc biệt, nhấn mạnh các vấn đề luân lý và các trường hợp thuộc toà giải tội; nhìn thẳng vào và suy nghĩ về các kinh nghiệm mục vụ, sức khỏe và đời sống tình cảm, về giới tính và tâm lý: “Mọi yếu tố đều phải phù hợp với mục đích căn bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng.”413

Thật vậy, khi còn là chủng sinh, họ học và biết rất rõ phải cử hành bí tích như thế nào, nhưng đó mới chỉ là lý thuyết; bây giờ là linh mục, họ cử hành chính những bí tích ấy với nội lực và kinh nghiệm của mình. Thật rất  khác nhau, nên họ cần sự đồng hành của các nhà đào tạo giúp họ hội nhập và sống đời sống bí tích của họ, với đường lối cá nhân, tự do và ý thức, trong đời sống hiệp thông, yêu thương, cảm nhận và thái độ của Đức Kitô,414 theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Linh mục càng sống đời linh mục của mình thì càng trở nên linh mục đích thực.

Mới đây, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, Đức Hồng Y Castrillon Hoyos mở một khoá tranh luận Thần Học Truyền Thông bàn về “Đào tạo thường xuyên cho giáo sĩ” và coi đây như một bổn phận và quyền lợi của Hội Thánh hoàn vũ, cũng như của mỗi linh mục. Đào tạo thường xuyên của linh mục là một lời mời gọi tiếp tục hoán cải và thánh hoá, một cuộc tái khám phá hàng ngày cái nhu cầu tuyệt đối của sự thánh thiện cá nhân của linh mục, cũng như nhu cầu thiết yếu của đời sống và sự trưởng thành của Dân Chúa, vì họ có quyền nhìn thấy và gặp được chính Đức Kitô nơi linh mục.415

B. Những Tương Quan và Trợ Giúp

     1. Tương Quan Với Chính Mình 

Trước hết, các linh mục mới phải luôn ý thức về căn tính của mình (tôi là ai?) trong mọi chiều kích của một đời sống quân bình và trưởng thành (nhân bản, thiêng liêng, giới tính và tâm lý). Họ phải cố gắng để luôn trung thành với lời cam kết và sứ vụ của mình, bởi vì “các linh mục sẽ đạt tới sự thánh thiện trong con đường riêng biệt của mình bằng cách thi thành sứ vụ của mình cách chân thành và không mệt mỏi trong Thần Khí của Đức Kitô,”416 đặc biệt là trong đời sống cầu nguyện: cầu nguyện thế nào thì sống thế ấy, và sống thế nào thì cầu nguyện như vậy. Hầu hết các linh mục rời bỏ chức linh mục đều là những vị đã bỏ đời sống cầu nguyện. Vì thế, Chúa Giêsu đã nhắc nhở “hãy tỉnh thức và cầu nguyện … tinh thần thì hăng hái nhưng bản tính nhân loại thì yếu đuối” (x. Mc 14, 38; Mt 26,41).

Họ có thể cảm thấy an ủi và chán nản trong cầu nguyện. Vì thế, họ phải ý thức rằng họ cầu nguyện không phải để thoả mãn những gì họ sẽ nhận được, nhưng để tìm gặp Chúa, mà Chúa thì đôi khi được thấy trong sự trần trụi và không ích kỷ. Không ai biết được lúc nào Chúa đến. Thái độ chờ đợi trong cầu nguyện phải là thái độ ý thức và tỉnh táo. Vì thế, Tân Ước đã nhiều lần nhắc nhở kiên trì trong cầu nguyện. Họ phải trung thành với thời gian mà chính họ đã ấn định cho việc cầu nguyện: luôn trung thành với lời cầu nguyện hằng ngày và kiên trì trong suốt thời gian cầu nguyện. Điều này dẫn đến một lời cầu nguyện sâu xa. Họ cũng nên kiên trì tìm gặp gỡ với Chúa ở bất cứ nơi nào và vào bất cứ lúc nào. Vị linh hướng vốn hiểu họ có thể giúp họ và trấn an họ những lúc khó khăn và hoang mang trong tương quan của họ với Chúa.417

    2. Tương Quan Với Người Khác

         a. Tương Quan với Giám Mục Bản Quyền

Trong vương quốc này của Thiên Chúa, người ta kể đến trước hết mối tương quan của linh mục với Giám Mục của mình.418 “Một cách bí tích, linh mục đi vào hiệp thông với Giám mục và các linh mục khác để phục vụ Dân Chúa.”419 Đức Gioan Phaolô II đã khuyên các Giám Mục Việt Nam hãy luôn gần gũi hơn với các linh mục, quan tâm tới đời sống hàng ngày của họ để nâng đỡ họ và đồng hành cùng họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ vụ; cung cấp cho họ một sự đào tạo thiêng liêng thích nghi với những thách đố trong việc truyền giáo mà họ phải đối diện.420 Chương trình đào tạo linh mục của Giáo Hội Philippines năm 1972 đưa ra đề nghị rằng các Giám mục nên đi bước trước trong cuộc đối thoại thân hữu và thường xuyên với các linh mục trẻ, để họ có thể cởi mở và chân thành bàn cải cách riêng tư, với sự hướng dẫn từ phụ của Giám Mục, về công việc, thành công và thất bại, kế hoạch và vấn đề, và về đời sống thiêng liêng của họ nữa.421

Với sự hiểu biết đầy yêu thương và sự trợ giúp từ phụ của Giám mục, linh mục sẽ đứng vững trong mọi hoàn cảnh, bởi vì mọi cuộc khủng hoảng đều đến từ cuộc khủng hoảng quyền bính. Thái độ của các linh mục đối với Giám Mục phải là hợp tác, vâng lời, tình bạn, và nhìn thấy nơi ngài một người cha thực sự và vâng phục ngài với tất cả kính trọng. Sự vâng lời càng đến từ con tim (không phải bởi quyền lực hay lý lẽ), thì mối tương quan giữa Giám mục và linh mục càng trở nên gần gũi và rồi mọi sự đều tốt đẹp.422

         b. Tương Quan Giữa Linh Mục Với Nhau

Mối tương quan và đối thoại của một “tình huynh đệ bí tích”423 giữa các linh mục già và linh mục trẻ có thể đưa tới hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau giải quyết các vấn đề và khó khăn trong sứ vụ linh mục của họ.424 Sắc lệnh về Sứ vụ và Đời sống linh mục đã mô  tả rõ ràng: Các linh mục nhiều tuổi hãy đón nhận những linh mục trẻ như  những người em thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí. Và các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.425

Tình huynh đệ bí tích này còn “hơn cả tình yêu của phụ nữ” (hãy xem tình bạn của David và Gionathan trong 2 Sm 1,26) và tình huynh đệ ấy trở thành bảo đảm cho đời độc thân của mọi linh mục trong tất cả cuộc sống và sứ vụ của họ. “Ngọt ngào tốt đẹp biết bao, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 132, 1). Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 ước mong rằng các hiệp hội linh mục phải được cổ vũ và phát triển để cung ứng cho họ sự trợ giúp huynh đệ.426

         c. Tương Quan Với Giáo Dân Nam Cũng Như Nữ 

Theo sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống linh mục, các linh mục phải nhớ rằng mọi người đã được rửa tội đều phải cùng nhau làm việc cho Nước Chúa, vì tất cả là thành viên của cùng một thân thể Đức Kitô. Các ngài phải nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá và sứ vụ của giáo dân, sẵn lòng lắng nghe họ, coi trọng những ước mong của họ, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng vào phận vụ của họ trong việc phục vụ Giáo Hội, để họ có đủ tự do và lãnh vực hoạt động, và cho họ cơ hội thích hợp gánh vác công việc theo sáng kiến của họ. Các linh mục cũng phải dẫn dắt giáo dân đi đến hiệp nhất, sự thật và công ích, hoà giải những khác biệt về tâm thức để không ai cảm thấy mình xa lạ ở  trong cộng đoàn tín hữu.

Còn về phía mình, giáo dân phải nhận biết bổn phận đối với các linh mục của mình, và bằng chia sẽ ân cần, họ giúp các ngài bằng lời cầu nguyện và công việc, ngõ hầu các ngài có thể sẵn sàng vượt qua những khó khăn mà chu toàn sứ vụ cách hiệu quả hơn.427

         d. Tương Quan Với Phụ Nữ: Trợ Lực Hay Là Vấn Đề Cho Cuộc Sống Và Sứ Vụ Của Linh Mục?

Theo sách Sáng Thế (St 2, 18-24) và theo quan niệm Á Đông về Âm-Dương,428 người nam và người nữ rất gắn bó nhau, hấp dẫn nhau và bổ túc cho nhau. Người nam không thể là một con người nếu không có người nữ và ngược lại. Điều này đã khởi sự ở trong gia đình và ngay từ thời niên thiếu: người nam và người nữ bổ túc cho nhau và sự sống, cả nhân bản và thiêng liêng, vẫn  tiếp tục trải ra và phát triển.

Sự việc cũng như thế với các linh mục và phụ nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa và đẹp đẽ và có nhiều công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực, nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát,429 cho một số linh mục.

Mọi thân xác đều mang giới tính. Quà tặng độc thân của linh mục có thể bị nguy hiểm, nhất là khi một người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc lâu giờ trong một nơi cửa khóa chặt, mà không có bất cứ khoảng cách nào, cùng với những biên giới cần thiết về thể lý, tâm lý và thiêng liêng. Và, vì một người đàn bà, một số linh mục đã từ bỏ thừa tác vụ, nhất là trong bối cảnh hiện nay của nền văn minh lấy cái tôi làm trọng tâm, vật chất, hưởng thụ, khoái lạc, phim con heo và nhục dục.

Vì thế, đời sống độc thân linh mục cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc và toàn bộ cách cư xử của mình, với ý thức rằng “chúng ta gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vở (2 Cr 4,7). “Cách thực tế, một lối sống phù hợp với chức linh mục không thể được phát triển, nếu chủng sinh dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một phụ nữ.”430

Đối diện với những vấn đề này, người ta được thúc đẩy thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hoà và quân bình giữa cả hai phái. Các chủng sinh tốt nghiệp có thể tự hỏi về quan niệm của mình đối với người khác phái, về cách quan hệ với phụ nữ và về những ảnh hưởng hổ tương của họ thế nào? Họ có mối quan hệ riêng biệt nào với một số phụ nữ hay với một số phụ nữ sống đời thánh hiến không? Đâu là nguyên nhân của mối quan hệ này? Có cảm nhận gì hay triệu chứng nào đáng nghi không ?

       e. Tương Quan Với Các Nữ Tu: Phải Khôn Ngoan Và Tỉnh Thức

Đối với các nữ tu, kể cả các nữ giáo dân tình nguyện và tông đồ, linh mục phải giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của họ và chính sự lệ thuộc của mình đối với Chúa, và “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mc 12,17). Linh mục cũng phải tôn trọng các nữ tu vì họ là “những cộng tác viên - chứ không phải những thuộc hạ hay người giúp việc - luôn sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới.”431

Nhưng, vì với lý tưởng chung là dâng hiến trọn vẹn đời sống cho Chúa và Dân Chúa như là những cộng tác viên, người ta có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở tâm sự cho nhau, bằng sự hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn, tin tưởng nhau, cảm thông với nhau, dịu dàng và ân cần chăm sóc. Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức được bộc lộ ra như muốn chiếm hữu, ghen tuông, và muốn độc quyền. Linh mục đừng quên lời khuyên của Chúa Giêsu (x. Mt 26,41; Mc 14,38): là những con người thánh hiến, nhưng họ vẫn không thôi là những con người với những yếu đuối nhân loại.

Các linh mục cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân không cần (và không được) được biểu lộ có tính cách phái tính và đồng hóa với hoạt động truyền sinh.

Sự thân mật độc thân có mức độ thích hợp của nó. Chính mức độ riêng biệt này cung ứng cho họ đủ tự do để yêu thương mọi người và không vượt qua các giới hạn của nó. Họ có thể khuôn đúc mối tương quan nam nữ của họ theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin Chúa ban can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” này, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người.

Để dễ dàng thực hiện điều đó, họ phải biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ. Họ phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa, bởi vì sự “hẹn hò” yêu thương thường được che giấu dưới những cớ hợp pháp và xứng đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.”432 Thật vậy, “bất cứ linh đạo đích thực nào cũng phải nghiêm khắc và mạnh mẻ, đòi hỏi thường xuyên cảnh giác và thức tỉnh.”433 Vì thế, mô hình đào tạo của ICLA với môi trường hổn hợp có thể là một chuyển tiếp tốt và thích hợp từ mô hình cũ tách biệt thế giới đàn ông và thế giới đàn bà, sang một nếp sống gần gủi, thân mật và tự nhiên như hiện nay.

Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Bởi tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác, trong việc soi sáng và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại khác nhau, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó.434 Người ta cũng không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm: “Người ta không thể đi theo con đường khó nếu không có một thứ khổ chế đặc biệt.”435

Nhưng trên hết, mỗi người phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta đã “chọn phần tốt hơn.”436 Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta như là “người canh giữ”, như là “bóng mát” của cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm để soi đường trong sa mạc, và như là “cánh tay uy quyền” của người bảo vệ.437

        f.   Tìm Những Con Đường Tương Quan Tốt

          1)  Linh Mục Trong Tương Quan Với Mẹ Và Chị Em Của Mình

Mối quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất của linh mục với các phụ nữ phải kể cụ thể là mối quan hệ với chính mẹ và chị em của mình. Mẹ của ngài là người phụ nữ mà ngài đã nhận được sự sống, và nhờ mẹ mà ngài có được ơn kêu gọi. Sự dịu dàng và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ ngài, giúp ngài lớn lên trong đời sống nhân bản cũng như đời sống thiêng liêng. Mẹ và chị em luôn tiếp tục đồng hành với ngài, với tình yêu thương, cầu nguyện, với chăm sóc canh phòng nhưng đầy kính trọng. Một linh mục tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em mình, đặc biệt trong thời gian dao động tình cảm và bị cám dỗ.             

         2)  Hãy đối xử với các Cụ Bà như là mẹ mình, và với các thiếu nữ như chị em mình với tấm lòng trong sạch” (1 Tm 5,2):

Từ thời niên thiếu về sau, linh mục nào cũng đều đã gặp gỡ các thiếu nữ và đàn bà, trong hàng xóm láng giềng hay tại trường phổ thông, và đại học. Để  sống hồng ân quí giá là đời sống độc thân vì Nước Trời trong con đường trưởng thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là linh mục phải phát triển cách sâu xa trong chính mình, hình ảnh của các phụ nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng như đối với mẹ và chị em mình.

Trong thời đại hôm nay, linh mục phải biết “khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và trong thế giới.”438 Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh. Nhưng, Đức Phaolô VI cũng nhắc Dân Chúa trách nhiệm của họ là cầu nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô và Giáo Hội.439

         3)  Nhìn Vào Cách Ứng Xử Của Chúa Giêsu Và Mối Tương Quan Hài Hoà Của Ngài Với Phụ Nữ 

Phúc Âm cho chúng ta biết rằng thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài và các phụ nữ. Chúng ta hãy xem vài khuôn mặt chính:

* Mẹ Maria, người mà Ngài đã tỏ lòng yêu thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục; và Mẹ đã trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và thực thi ý Chúa;

* Mattha và Maria ở Bethania nơi mà Chúa thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo; và Ngài đã trở nên rất gần gũi với họ;

* Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến căn tính đích thực của Ngài;

* Maria Madalena, người được cứu sống và hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu; cô đã thấy Chúa Phục Sinh và nhận lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo sự sống lại;

* Người phụ nữ vô danh mà Chúa đã dạy cho biết hạnh phúc lớn lao là lắng nghe và thực hành lời Chúa;

* Các con gái thành Giêrusalem đã theo Chúa trên con đường thánh giá.

Linh mục cần học từ Chúa Giêsu, là Thầy và Chủ của mình, cách thức quan hệ và ứng xử thế nào cho đúng mực với các phụ nữ.     

       3.   Tương Quan Với Thiên Nhiên 

Trong thời đạo đức sinh học của chúng ta hôm nay,440 linh mục cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh với toàn thể thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng hoạt động. “Thiên Chúa ở trong tất cả” là lối hiểu nền tảng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo:441 Thiên Chúa không ở ngoài thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài cho đến kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài (2 Cr 5,19; 1 Cr 8,6; Eph 1,3-14; Cl 1,15-29; Ga 1,1-3; Kh 21,5), và cứu chuộc nó (Rm 8,19). Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này của Thiên Chúa (St 1, 28) như một trách nhiệm tôn giáo. Thật vậy, đời sống thiêng liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần Khí, nên khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Để chu toàn đời sống và sứ vụ linh mục của mình, linh mục phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển, cây nho, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, v.v.… Chúa Giêsu được Thần Khí hướng dẫn và Ngài thường ra đi vào sáng sớm tinh sương hay muộn màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng, một mình, vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp thông thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và củng cố (x. Mc 6,31).

Linh mục nên tìm thư giãn trong các môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và gia tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để cho trí óc và con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật. Ngài có thể dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện ngay trên bờ biển lúc rạng đông lên hay khi hoàng hôn xuống, dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm giữa cánh đồng bao la bát ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè …. Ngài có thể lắng nghe tiếng sóng vỗ của đại dương, tiếng reo của suối, của cây cối, của chim chóc, của hoa cỏ …. như là nghe thấy Chúa Thánh Thần442 nói trong trí khôn, trong con tim và trong linh hồn vậy.

Ngài sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện thân tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời ngài cảm nhận được sự cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ngài sẽ học thực hành sống khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với tạo thành. Ngài cũng thực hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi thở: Khi hít vào, ngài tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần đang chuyển vào trong mình ngài để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm sức mạnh, và trong khi thở ra lại tưởng tượng rằng Chúa Thánh Thần đang đẩy những điều xấu ra khỏi cuộc sống mình. Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và bảo vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực cho chúng ta.443

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
“NƠI AN NGHỈ MỘT NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI”

 

DI CHÚC CỦA SƯ HUYNH NGUYỄN TẤN KIỆT

NGƯỜI KHAI SINH TRƯỜNG PHÁI “KIETISME”

CŨNG LÀ NGƯỜI SÁNG LẬP “TU HỘI SỐNG GIỮA LÒNG ĐỜI”

 

LỜI DẪN – Dưới đây là một phần, không phải toàn văn một bài viết có tên là Tằm Nhả Tơ  không ghi ngày tháng viết nhưng có ghi được cưu mang và hạ sinh sau 57 năm ngụp lặn trong kiếp người (1936-1993) và một phần của một bài viết khác có tên là Cảm Nhận Tử Thần Xuất Hiện Dần Dần Nơi Chính Xác Thân viết đêm mồng 7 tháng 7 năm 1993, được tác giả, -- Sh. Nguyễn Tấn Kiệt, người khai sinh trường phái “Kietisme” đồng thời cũng là người sáng lập “Tu Hội Sống Giữa Lòng Đời” gọi là Cẩm Nang – Hồi Ký – Bút Tích.

Hai văn bản trên còn có cả những lời trăn trối (sic), thậm chí, còn có cả nội dung văn bia mà ông đề nghị người sống ghi nơi phần mộ ông sau khi ông tạ thế!

Đây không phải là một di chúc chính thức, nhưng đây đúng là những lời tâm huyết của Sh. Nguyễn Tấn Kiệt muốn chuyển đến những người thân của ông mà tôi, --- người viết --, có vinh dự bảo quản. Vậy nhân đây, tôi xin long trọng công bố sớm để mọi người cùng được biết.

Có một sự vui mừng chung nhân tiện tôi xin thông báo để quý vị thân hữu, người quen, môn sinh của Sư Huynh và quý độc giả được biết, đó là mặc dù chúc thư  này được công bố, nhưng Sh. Kiệt vẫn mạnh khỏe và những gì ông viêt từ trước tới giờ được gọi là KIETISME” hay/ “KIETISM”, nay một phần lớn đã được truyền đi khắp thế giới.

Kính mời quý ông bà anh chị em vào hai địa chỉ website sau đây :

http://www.chungnhanduckito.net/tacgia/Phan%20Van%20Khai/

http://www.dunglac.net/Kietism để trực tuyến ghé thăm “gia trang” của chúng ta để cùng chia xẻ những gì hiện có và để góp phần xây dựng mảnh vườn chung của chúng ta ngày càng thêm nhiều kỳ hoa dị thảo, -- phong phú và khởi sắc hơn.

Trân trọng.

Thuận Châu PHAN VĂN KHẢI

 

                 MỘT NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI

 

“Đời tôi có mấy lần lột xác, tạo thành mấy cột mốc lớn trong kiếp phù sinh:

· Chào đời ngày 5.2.1936 – Bính Tý

· Ngày 16.9.1950 : XUẤT THẾ QUI Y, dâng trọn đời hầu việc Chúa.

· Ngày 21.4.1961 : Long trọng THỀ : LUÔN LUÔN NGHĨ TỐT, NÓI TỐT và LÀM TỐT, -- một lời thề buộc chặt người thề nếp chân tu.

· Ngày 15.8.1980 : RỜI BỤC GIẢNG chính qui, -- lang thang đó đây kiếm cơm độ nhật.

· Ngày 05.2.1991 : TỰ NGUYỆN SỐNG ĐỜI CHIÊM NIỆM, CẦU NGUYỆN và TRUYỀN GIÁO.

· Ngày – chưa biết, – SẼ VỀ TRONG NƯỚC CHÚA.  

“TRƯỚC KHI RA ĐI, tôi tha thiết gởi gắm với từng người TU HỘI SỐNG GIỮA LÒNG ĐỜI , do tôi sáng lập và chính thức khai sinh ngày 5 tháng 2 năm 1991.  

“TU HỘI NÀY : không có tu viện, không có đồng phục dòng, không có thống kê. Chỉ có một lời hứa thiêng liêng : HỨA SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN, THIỆN HẢO và PHƯỚC BÁO.

 (…)

“ƯỚC AO/THAO THỨC duy nhất/đầu tiên và/cuối cùng của đời tôi là cho tôi ĐƯỢC SỐNG HỒN NHIÊN/THANH THẢN/NGAY LÀNH để tôi đặng bình an/thanh thản/thuận thiên đi về Thiên Quốc, 

“TIỂU SỬ ĐỜI TÔI có thể cô đọng trong vài ba chữ : NHỊN NHỤC, NHẪN NHỤC --, CAM CHỊU, CHỊU ĐỰNG MỌI SỰ vì Chúa Giêsu Kitô.  

“Và Đức Giêsu Kitô cũng dũ lòng thương , biến mọi nỗi gian truân/tủi nhục của đời tôi thành HỒNG ÂN CỨU ĐỘ. 

 “TRƯỚC KHI DỪNG BÚT, tôi xin quỳ gối dưới chân mỗi người nói lên lời trăn trối của tôi :  

-“XIN MỌI NGƯỜI HÃY LUÔN LUÔN/HOÀI HOÀI NGHĨ TỐT CHO VỢ, CHO CHỒNG, CHO CON, CHO BẠN BÈ VÀ CHO HẾT THẢY MỌI NGƯỜI CHUNG QUANH.

“TÔI ĐỀ NGHỊ bạn bè/thân hữu ghi trên mộ bia tôi như sau :  

-“NƠI ĐÂY AN NGHỈ MỘT NGƯỜI SUỐT ĐỜI XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI” .

 

Thuân Chậu PHAN VĂN KHẢI rút từ thủ bản KIETISME

của Sh. ZACHARIE NGUYỄN TẤN KIỆT-- Dòng Lasan Taberd, Saigòn – Việt Nam

VỀ MỤC LỤC

Câu Chuyện Thầy Lang:

 

An Toàn Sử Dụng Dược Phẩm  

 

Dược phẩm là chất lấy từ thực vật, khoáng chất, sinh động vật và hóa chất với mục đích để:

-điều trị và phòng ngừa bệnh

-phục hồi các chức năng của cơ thể

-thay đổi quá trình sinh sản

khi được dùng đúng lúc, đúng cách, trong một thời gian đã được chỉ định.

Dược phẩm có thể là tự nhiên hoặc được bào chế.

Trước khi đưa ra thị trường, dược phẩm đều được kiểm soát, thử nghiệm để bảo đảm công hiệu và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, không có dược phẩm nào một trăm phần trăm an toàn, không có rủi ro.

Ðể giảm thiểu rủi ro do dược phẩm gây ra và để tận dụng các lợi ích của thuốc, xin cùng tích cực trong việc dùng thuốc.

Mấy điều cần để ý

1- Kê khai với bác sĩ đầy đủ về bệnh tật của mình, về tất cả các phương pháp điều trị đang trải qua và các thuốc đang dùng.

Nên làm một danh sách tất cả các thuốc do bác sĩ biên toa, do tự mua, do bạn bè tặng

Ghi rõ liều lượng, số lần uống mỗi ngày; các khó khăn phản ứng do thuốc gây ra

Các vấn đề có thể bị ảnh hưởng vì thuốc như có thai, đang cho con bú, khó khăn nhai nuốt...

2- Cho bác sĩ hay nếu:

-Ðã có dị ứng hoặc phản ứng với một loại thuốc, một món ăn hoặc một chất nào đó.

-Ðang áp dụng một chế độ ăn kiêng như ít muối, ít đường hoặc chất béo.

-Ðang uống một thuốc trị bệnh, một dược thảo hoặc món ăn bài thuốc.

-Có bệnh tật khác ngoài bệnh hiện đang điều trị.

-Ðang mang thai hoặc dự trù sẽ có thai. Một vài loại thuốc có thể gây ra khuyết tật cho thai nhi. Trong thời kỳ có thai, phải hết sức cẩn thận khi dùng thuốc và phải hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng.

-Ðang cho con bú sữa mẹ vì một vài loại thuốc có thể vào sữa và gây ảnh hưởng không tốt cho con.

3- Nên hỏi bác sĩ và dược sĩ về bất cứ điều gì mình không biết hoặc muốn biết về dược phẩm đang dùng. Như là:

*Tên riêng và tên chung của thuốc

*Thuốc có công dụng gì?

*Bao lâu sau khi uống thì thấy có kết quả?

*Bao giờ ngưng thuốc?

*Thuốc này có thể thay thế cho các thuốc hiện đang uống không?

*Nếu thuốc không công hiệu thì phải làm gì?

*Thuốc có thể gây ra bệnh nào khác không?

*Uống thuốc khi nào? trước hoặc sau bữa ăn?

*Uống bao nhiêu lần trong ngày?

*Uống như thế nào? với nước lạnh hay với nước trái cây hoặc với thực phẩm?

*Khi quên một lần uống thuốc thì phải làm gì?

*Có cần kiêng cữ thực phẩm nước uống gì trong khi dùng thuốc?

*Có phải giới hạn sinh hoạt nào, như là vận động cơ thể, lái xe..?

*Có thể uống chung với các thuốc khác đang dùng, kể cả dược thảo...?

*Tác dụng phụ của thuốc? Phải làm gì khi có phản ứng ngoại ý do thuốc gây ra?

*Tương tác giữa thuốc với thức ăn, nước uống

*Liệu có thể trở nên nhờn thuốc, quen thuốc hoặc ghiền- phụ thuộc vào thuốc? Nếu có thì phải làm gì?

*Có cần phải làm thử nghiệm gì trong thời gian uống thuốc? Thử máu, X-quang...?

*Phải làm gì nếu quên một lần uống thuốc hoặc uống quá nhiều?

*Phải cất giữ thuốc ở đâu?

* Ngày hết hạn dùng của thuốc?

4- Cần đọc kỹ các hướng dẫn trên nhãn hiệu

Ðúng thuốc mà bác sĩ chỉ định

Ðúng tên bệnh nhân

Ðúng liều lượng

Ðúng giờ (mỗi mấy giờ, trước hoặc sau bữa ăn...)

Ðúng cách (nuốt chứ không nhai...)

Cất giữ thuốc trong chai, hộp có nhãn hiệu nguyên thủy

Không để nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một lọ

Mua thêm thuốc trước khi hết vài ngày, để bảo đảm sự liên tục dùng thuốc.

Mỗi thuốc có thời gian tác dụng khác nhau: có thuốc tác dụng ngay, có thuốc cần thời gian lâu hơn.

Kháng sinh cần phải uống tới khi hết thuốc, vì nếu ngưng quá sớm, bệnh có thể tái phát.

Ngưng thuốc dần dần chứ không đột ngột ngưng tất cả.

Lợi-Hại của thuốc

Sau khi đã hiểu cặn kẽ về thuốc, nên cân nhắc lợi hại khi dùng.

Lợi điểm của thuốc là tác dụng tốt thu lượm được sau khi dùng. Thí dụ như huyết áp đang cao 180/94, uống thuốc vào huyết áp giảm xuống 120/74 hoặc đang đau lưng mà uống mấy viên aspirin thấy hết đau...đó là lợi điểm của thuốc.

Rủi ro do thuốc là những hậu quả không muốn hoặc không ngờ xẩy ra. Nhẹ thì như khó chịu bao tử do viên aspirin hoặc nặng như chẩy máu dạ dày cũng do viên aspirin.

Khi có bệnh thập tử nhất sinh thì phải chấp nhận rủi ro lớn của thuốc để cứu vãn tình trạng. Trái lại khi bệnh nhẹ thì có quyền lựa chọn thuốc với ít rủi ro. Bác sĩ, dược sĩ có thể góp ý về sự lựa chọn này. 

 Tương tác giữa các thuốc

Khi có nhiều bệnh, được nhiều bác sĩ chăm sóc, người bệnh đó chắc chắn sẽ uống nhiều loại thuốc khác nhau. Mỗi thuốc có đặc tính riêng và các đặc tính này có thể tương phản với nhau.  

Có nhiều cách tác động qua lại giữa các thuốc:

a-Tác động giữa thuốc với thuốc: thí dụ đang uống thuốc để ngủ lại uống thuốc chống dị ứng, có thể buồn ngủ hơn và dễ dàng gây tai nạn khi lái xe; thuốc chống acid bao tử có thể làm giảm tác dụng của thuốc kháng sinh Cipro, không nên uống Viagra chung với thuốc nitrate chữa đau tim huyết áp có thể giảm rất nhiều

b-Tác động giữa thuốc với bệnh: thí dụ đang bị cao huyết áp mà uống vài loại thuốc chống nghẹt mũi thì huyết áp có thể tăng rất cao. 

Ðể giảm thiểu rủi ro khi dùng thuốc

-Luôn luôn đọc kỹ nhãn hiệu thuốc.

-Ðể ý tới các lời cảnh báo về thuốc.

-Nói cho bác sĩ hay tất cả các thuốc đang dùng, dù là thuốc do bác sĩ biên toa hoặc mua tự do, bạn bè cho.

-Làm một danh sách đầy đủ các thuốc đang sử dụng.

-Hỏi bác sĩ có cần kiêng thực phẩm nước uống nào không.

-Mua thuốc ở một tiệm để dễ dàng theo dõi.

-Nếu có thể, nên nhớ tên riêng hoặc tên chung của các loại thuốc.

-Khi đi du lịch, nên mang thuốc theo hành lý xách tay, vì hành lý gửi đôi khi bị thất lạc.

-Nên mang dư thuốc hơn là thiếu thuốc.

-Nên mang phó bản toa thuốc của bác sĩ.

-Ðừng bao giờ chia sẻ thuốc của mình với người khác hoặc dùng thuốc của người khác. Thuốc được chỉ định riêng cho mỗi người với điều kiện bệnh khác nhau. Dùng chung có thể gây tai nạn.

-Nếu chẳng may dùng nhầm thuốc hoặc dùng quá liều lượng, nên báo cho bác sĩ gia đình hay ngay để được hướng dẫn cách thức đối phó, giải quyết.

-Nên có một lọ thuốc gây ói Ipecac Syrup để cấp cứu khi có ngộ độc thuốc, sau khi tham khảo ý kiến bác sĩ.

Cất giữ thuốc

-Ðể thuốc xa tầm với của trẻ em

-Giữ thuốc trong chai, hộp nguyên thủy với tên bệnh nhân, nhãn hiệu, cách dùng.

-Tránh để thuốc nơi có nhiều ánh sáng, độ ẩm và quá nóng, như trong buồng tắm, trong bếp.

-Ðừng để thuốc nước trong ngăn đá, tránh thuốc bị đông lạnh.

-Không cần cất thuốc trong tủ lạnh, trừ khi có yêu cầu.

-Không để thuốc trong xe hơi quá lâu, vì nhiệt độ cao mùa hè có thể thay đồi phẩm chất của thuốc.

-Vất bỏ thuốc đã quá hạn sử dụng hoặc thuốc đã thay đổi hình dạng, mầu sắc.

Cách dùng thuốc

a-Thuốc uống

-Thuốc uống có thể dưới dạng viên nén, viên con nhộng hoặc chất lỏng.

-Trừ khi bác sĩ dặn cách khác, thường thường, nên uống thuốc với một ly nước lã. Ðôi khi có thể phải uống vào lúc no bụng hoặc bụng đói.

-Nếu là thuốc nước, cần uống với một loại thìa có ghi rõ số lượng. Thìa dùng để ăn uống đôi khi không chính xác.

-Nếu có khó khăn khi nuốt liều thuốc được biên cho, nên cho bác sĩ hay để đổi liều lượng khác dễ nuốt hơn. 

b-Thuốc xịt cuống họng

Ngồi hoặc đứng ngay ngắn, nâng cao cằm để mở rộng ống dẫn không khí từ miệng.

-Mở nắp bình thuốc và lắc mạnh để thuốc hòa đều với nhau.

-Hít sâu vào mấy lần rồi nhẹ nhàng thở ra. Ðể vòi bình thuốc giữa hai hàm răng, ngậm chặt môi.

-Nhẹ nhàng thở ra hít vào, trong lúc hít vào thì bơm thuốc

-Tiếp tục hít vào để thuốc xuống sâu trong ống phổi

-Giữ hơi thở trong mười giây hoặc lâu hơn trước khi thở ra.

-Nếu cần xịt thêm thuốc, lập lại các thao tác trên.

-Lau vòi thuốc, đậy nắp để tránh nhiễm trùng.

-Ðể ý đừng xịt thuốc vào mắt.

-Nếu quên một lần xịt thuốc thì xịt ngay, rồi tiếp tục theo liều lượng định trước.

-Cất thuốc xa ánh sáng, hơi nóng

c-Thuốc nước nhỏ mắt

Rửa tay với nước ấm và xà bông. Lau khô tay

-Nằm ngửa, nhìn lên trần nhà, đầu ngả về phía sau

-Lấy một ngón tay kéo mí mắt dưới xuống

-Tay kia cầm lọ thuốc, nhỏ một giọt vào phía dưới mắt.

-Chớp mắt mấy lần để thuốc lan khắp mắt.

-Ðợi năm phút trước khi nhỏ loại thuốc thứ hai

-Nếu vừa phải nhỏ thuốc nước và thuốc mỡ, nhỏ thuốc nước trước.

-Rửa tay sau khi nhỏ thuốc để không có thuốc dính trên tay.

d-Thuốc nhỏ mũi

-Hỉ mạnh để mũi thông thoáng

-Rửa tay với xà bông và nước

-Kiểm soát coi đầu xịt có bị nứt vỡ, tắc nghẽn

-Ðừng để đầu xịt dính vào mũi

-Ngả đầu về phía sau hoặc nằm ngửa

-Nhỏ thuốc vào mũi

-Cúi đầu về phía sau, nghiêng qua nghiêng lại cho thuốc lan ra khắp mũi

-Giữ nguyên vị trí khoảng 5 phút

-Rửa sạch đầu xịt của lọ thuốc, đậy nắp.

-Không nên dùng chung lọ thuốc nhỏ mũi của người khác để tránh lây lan vi khuẩn.

Nếu là thuốc xịt, cũng làm như trên và nhớ khịt mũi vào để hít được nhiều thuốc.

đ-Thuốc nhỏ lỗ tai

Nằm nghiêng, để phía tai cần thuốc hướng lên trần nhà

Với nguời lớn, nhẹ nhẹ kéo vành tai lên trên và về phía sau, với trẻ em, kéo vành tai xuống dưới và về phía sau.

Nhỏ thuốc vào ống tai

Giữ nguyên vị trí đầu trong 5 phút để thuốc chẩy vào phía trong tai.

Lau đầu lọ thuốc với khăn sạch và đậy nắp cho kín.

e-Thuốc dán trên da

-Cẩn thận lấy miếng thuốc dán ra khỏi gói, tránh làm miếng thuốc bị rách nát

-Ðừng chạm tay lên mặt có thuốc

-Áp miếng thuốc dán lên vùng da không có lông, không có vết da trầy, sạch sẽ và khô

-Lấy ngón tay đè nhẹ lên miếng thuốc dán để thuốc dính chặt vào da.

-Thay đổi chỗ dán trên da để tránh viêm da

-Ðừng cắt nhỏ thuốc dán để thay đổi liều lượng của thuốc.

g-Thuốc nhét hậu môn

-Rửa sạch tay

-Bóc giấy bọc viên thuốc, nhúng vào nước cho ẩm

-Nằm nghiêng, nhét viên thuốc vào hậu môn rồi dùng ngón tay đẩy cao viên thuốc lên trực tràng.

-Nếu viên thuốc quá mềm, để trong ngăn đá mươi phút cho cứng.

h-Thuốc nhét âm hộ

-Rửa tay sạch sẽ

-Nằm ngửa, hai đầu gối gập lại

-Dùng ống đặt thuốc nhẹ nhàng đưa viên thuốc vào cửa mình.

-Nằm đợi mấy phút trước khi đứng dậy.

-Rửa tay và ống đặt thuốc.

Ðiều cần làm khi có ngộ độc thuốc

Uống nhầm thuốc hoặc các hóa chất khác ở trong nhà cũng thường xẩy ra, nhất là khi người bệnh dùng nhiều loại thuốc.

Tai nạn xẩy ra vì vô tình hoặc vì không hiểu rõ về thuốc.

Khi nghi có người bị ngộ độc mà lại bất tỉnh, làm kinh, khó thở, cần kêu xe cứu thương ngay.

Nếu không, cho nạn nhân uống một ly nước rồi kêu ngay cho Trung Tâm Kiểm soát Ðộc chất, báo cáo trường hợp và xin ý kiến.

Ðọc tên loại thuốc hoặc hóa chất dùng nhầm, dùng bao giờ, bao nhiêu, tuổi người uống nhầm, đang có dấu hiệu gì.

Không nên làm nạn nhân ói mửa, trừ khi trung tâm nói làm vậy.

Trong nhà nên dự trữ một lọ thuốc nước 30 cc Ipecac Syrup là thuốc thường dùng để gây ói mửa.

Kết luận

Sir Williams Osler, người thầy thuốc kiêm giáo sư y khoa nổi danh của Gia Nã Ðại có ý kiến rằng: “Sự muốn dùng dược phẩm có lẽ là một đặc trưng lớn để phân biệt con người với loài vật”

Nhưng, để việc sử dụng này được an toàn, công hiệu như ý muốn, người bệnh cần có hiểu biết rõ ràng về thuốc, về cách dùng, về các tác dụng tốt xấu của thuốc...

Và muốn được như vậy, bệnh nhân cần hợp tác chân tình với bác sĩ, dược sĩ, tuân theo các hướng dẫn.

Ðể cho bệnh mau khỏi, sức khỏe sớm hồi phục và không bị nhầm lẫn trong khi dùng thuốc.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức   Texas-Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************